Những người ác mang trong mình sự cố chấp phi thường. Họ thể hiện ý chí mạnh mẽ, kiên quyết phải được như ý muốn, tạo ra một thứ sức mạnh kỳ lạ có thể thao túng người khác. Bản tính thích kiểm soát quá mức của người ác được thể hiện rất rõ qua một thần thoại Mormon, trong đó Chúa Kitô và Satan đều phải trình bày kế hoạch với Thượng Đế để định hướng loài người non trẻ. Kế hoạch của Satan thì đơn giản (giống như nhiều nhà lãnh đạo doanh nghiệp hay quân sự ngày nay): Thượng Đế có vô số thiên thần dưới quyền; chỉ cần phân công một thiên thần có quyền trừng phạt giám sát mỗi cá nhân, thì sẽ không khó để giữ họ trong kỷ luật. Kế hoạch của Chúa Kitô thì khác biệt hoàn toàn, sáng tạo và tràn đầy sinh khí: “Hãy để họ có tự do ý chí và sống theo cách riêng”, Ngài đề xuất, “nhưng xin hãy để Con sống và chết như một trong số họ, vừa để làm gương, vừa để chứng tỏ Cha yêu họ đến mức nào". Tất nhiên, Thượng Đế đã chọn kế hoạch của Chúa Kitô, vì đó là kế hoạch sáng tạo hơn, và vì thế mà Satan đã nổi loạn. Bản tính kiểm soát của cái ác cũng được bàn sâu trong luận văn chưa xuất bản của Marguerite Shuster, "Quyền lực, Bệnh lý và Nghịch lý" (Fuller Theological Seminary, 1977).
Các nhà thần học thường cho rằng cái ác là hệ quả của tự do ý chí. Khi Thượng Đế ban cho con người tự do ý chí, Ngài cũng cho phép chúng ta có quyền lựa chọn điều ác. Vấn đề này cũng có thể được nhìn nhận trong các thuật ngữ thế tục của thuyết tiến hóa. “Ý chí" của các loài sinh vật kém phát triển hơn dường như phần lớn nằm dưới sự điều khiển của bán năng. Tuy nhiên, khi loài người tiến hóa từ loài vượn, chúng ta cũng đồng thời vượt ra khỏi sự kiểm soát đó. Và từ đó bước vào vùng đất của tự do ý chí. Sự tiến hóa này khiến con người hoặc trở nên hoàn toàn tùy tiện theo ý mình, hoặc phải tìm cách tự kiểm soát bản thân thông qua việc nhún nhường trước những nguyên tắc cao hơn. Nhưng điều này vẫn để lại câu hỏi: tại sao một số người có thể đạt được sự quy phục đó, trong khi những người khác thì không?
Thật vậy, sẽ rất dễ đi đến kết luận rằng bản chất cái ác nằm trong ý chí. Có thể có những người ác được sinh ra với ý chí mạnh mẽ đến mức không thể nhún nhường. Tôi thì cho rằng một đặc điểm điển hình của tất cả những cá nhân lừng danh – dù sự lừng danh ấy đến từ điều thiện hay điều ác – đều phải có ý chí rất mạnh. Ý chí của Hitler truyền bá trong cuốn Mein Kampf, cũng mạnh mẽ như ý chí của Chúa Giê-su lan tỏa trong các sách Phúc Âm. Nhưng ý chí của Chúa Giê-su là ý chí của Thượng Đế thiêng liêng, còn ý chí của Hitler là của riêng hắn. Sự phân biệt then chốt nằm ở giữa “ý chí sẵn lòng” và “ý chí cố chấp".
Sự thất bại trong việc biết nhún nhường, đặc trưng của ái kỷ ác tính, giống như khi Satan từ chối quy phục phán quyết của Thượng Đế rằng Chúa Kitô làm tốt hơn hắn. Để chấp nhận phán quyết đó, Satan sẽ phải chấp nhận sự khiếm khuyết của chính mình. Điều đó với hắn là không thể. Với hắn, ý nghĩ rằng bản thân không hoàn hảo là không thể chấp nhận. Do đó, việc quy phục trở nên bất khả, và sự nổi loạn rồi sa ngã vào hủy diệt là tất yếu. Tất cả những ai sống trong điều ác cũng đều hành động tương tự: trốn tránh vào sự hủy diệt để bảo vệ hình ảnh tự cao của bản thân.
“Trèo cao té đau” là cách dân gian nói về sự kiêu ngạo, thứ mà trong ngôn ngữ của tâm lý học gọi là “ái kỷ ác tính”. Là gốc rễ sâu xa của cái ác, nên không có gì ngạc nhiên khi nhà thờ từ lâu đã coi kiêu ngạo là tội lỗi đứng đầu trong bảy đại tội. Cái kiêu ngạo được đề cập ở đây không phải là niềm tự hào chính đáng sau một việc làm tốt đẹp. Dù kiểu tự hào đó cũng có thể dẫn đến sai lầm, nhưng nó là một phần của sự tự tin lành mạnh và cảm nhận thực tế về giá trị bản thân. Điều mà ta đang bàn đến ở đây là kiểu kiêu ngạo không thực tế, phủ nhận bản tính tội lỗi và thiếu sót vốn có của con người – sự ngạo mạn đến độ thúc đẩy người ta phủ nhận và thậm chí tấn công bất cứ đánh giá nào hàm ý rằng họ không hoàn hảo. [...] Những kẻ mắc chứng tự luyến ác tính sẽ luôn khăng khăng rằng mình đúng, bất chấp mọi thực tế.
Vậy nguyên nhân nào dẫn đến sự kiêu căng quá mức này? Tại sao nó hành hạ một số ít người trong khi phần lớn dường như thoát khỏi móng vuốt của nó? Chúng ta vẫn chưa biết.
Trong khoảng mười lăm năm trở lại đây, giới tâm lý học mới bắt đầu dành sự quan tâm đến hiện tượng ái kỷ, nên hiểu biết của chúng ta về chủ đề này vẫn còn ở giai đoạn sơ khai. Chúng ta vẫn chưa phân biệt được rạch ròi các mức độ tự luyến. Có nhiều người có hành vi ái kỷ rõ ràng - thậm chí là lộ liễu – nhưng không vì thế mà trở thành người xấu. Tất cả những gì tôi có thể nói vào thời điểm này là kiểu ái kỷ đặc biệt gắn liền với những người mà tôi gọi là “ác” dường như sẽ tác động đặc biệt đến ý chí. Vì sao một người lại trở thành nạn nhân của dạng này mà không phải dạng khác, hoặc không bị ảnh hưởng gì cả, tôi chỉ có thể suy đoán một cách mơ hồ. Trong kinh nghiệm của tôi, cái ác dường như có xu hướng di truyền trong gia đình. Một trường hợp sẽ được mô tả ở Chương 4 cũng có cha mẹ mang bản chất ác. Nhưng nếu mô thức gia đình này là đúng, thì nó cũng không giải quyết được tranh cãi muôn thuở về “bẩm sinh hay môi trường”. Liệu cái ác có mang tính di truyền không? Hay nó được đứa trẻ học theo từ cha mẹ? Hoặc thậm chí là hình thành như một cơ chế phòng vệ trước cha mẹ? Và chúng ta lý giải thế nào về việc nhiều đứa con của những bậc cha mẹ ác, dù bị tổn thương, nhưng lại không trở thành người ác? Chúng ta chưa biết, và sẽ không thể biết chắc, cho đến khi có nhiều công trình nghiên cứu khoa học tỉ mỉ hơn được thực hiện.
Một trong những giả thuyết hàng đầu về nguồn gốc của chứng ái kỷ cho rằng đó là một hiện tượng mang tính phòng vệ. Vì hầu như tất cả trẻ nhỏ đều thể hiện một loạt đặc điểm mạnh mẽ của tính ái kỷ, nên người ta cho rằng nó là điều chúng ta sẽ vượt qua được trong quá trình phát triển bình thường: khi lớn lên trong một tuổi thơ ổn định, dưới sự chăm sóc của những bậc cha mẹ yêu thương và thấu hiểu. Tuy nhiên, nếu cha mẹ tàn nhẫn và vô cảm, hoặc trải qua tuổi thơ đầy sang chấn, hành vi ái kỷ ở thời thơ ấu sẽ được giữ lại như một pháo đài tâm lý để bảo vệ người đó khỏi những biến cố không thể chịu đựng của cuộc sống. Giả thuyết này có thể phù hợp với sự hình thành của cái ác nơi con người. Giống như việc các nhà thờ thời trung cổ đã đặt những hình chạm khắc quái vật, biểu tượng của cái ác, lên mái để xua đuổi tà quái, một đứa trẻ có thể trưởng thành và trở nên ác độc như một cách để tự bảo vệ mình khỏi những đợt tấn công từ chính cha mẹ. Vì vậy, chúng ta có thể nghĩ đến cái ác nơi con người – hoặc ít nhất là một phần của nó – như một dạng “dĩ độc trị độc” trong tâm lý học.
Tuy nhiên, cũng có thể nhìn nhận nguồn gốc của cái ác theo những cách khác. Thực tế là: có những người rất tốt, có những người rất xấu, và phần lớn chúng ta nằm đâu đó ở giữa. Do đó, chúng ta có thể hình dung thiện và ác như hai đầu của một phổ. Là cá nhân, chúng ta có thể tự đẩy mình theo hướng này hoặc hướng kia. Nhưng cũng giống như quy luật “giàu càng thêm giàu, nghèo càng thêm nghèo", dường như cũng có một khuynh hướng tương tự nơi đạo đức: người tốt sẽ ngày càng trở nên tốt hơn, còn người xấu sẽ càng lúc càng lún sâu hơn vào điều ác. Erich Fromm đã bàn khá sâu về vấn đề này:
“Năng lực lựa chọn của chúng ta liên tục thay đổi theo cách mà ta sống. Càng tiếp tục đưa ra những lựa chọn sai lầm, trái tim ta càng trở nên chai sạn; càng thường xuyên đưa ra quyết định đúng đắn, trái tim ta càng dịu dàng - hay đúng hơn, là càng trở nên sống động hơn.
...Mỗi bước tiến trong cuộc sống giúp tôi gia tăng sự tự tin, sự chính trực, lòng can đảm và niềm xác tín cũng đồng thời làm tăng khả năng lựa chọn điều đúng đắn, cho đến khi một lúc nào đó, điều sai trái trở nên khó lựa chọn hơn điều phải.
Ngược lại, mỗi hành động đầu hàng hay hèn nhát sẽ làm tôi yếu đi, mở đường cho thêm nhiều hành động đầu hàng khác, và cuối cùng tự do cũng mất đi. Giữa hai thái cực: khi ta không thể làm điều sai, và khi ta không còn khả năng làm điều đúng, tồn tại vô số mức độ tự do lựa chọn khác nhau. Trong thực tế cuộc sống, mức độ tự do để lựa chọn điều đúng luôn khác nhau tùy thời điểm. Khi khả năng tự do lựa chọn lẽ phải là dễ dàng, thì ta cần ít nỗ lực để chọn nó. Còn khi khả năng ấy thu hẹp, ta cần nỗ lực rất lớn, cần sự trợ giúp từ người khác và cần cả những điều kiện thuận lợi.
... Phần lớn người ta thất bại trong nghệ thuật sống không phải vì bản chất họ là kẻ xấu hay thiếu ý chí đến độ không thể sống tốt hơn; mà vì họ không đủ tỉnh thức để nhận ra khi nào họ đang đứng tại ngã ba đường và cần phải quyết định. Họ không biết lúc nào cuộc sống đang đặt ra một câu hỏi, và rằng khi ấy họ vẫn còn có thể lựa chọn những câu trả lời khác nhau. Rồi với mỗi bước chân đi sai, việc thừa nhận rằng mình đang đi lầm đường lại càng trở nên khó khăn – vì khi đó họ phải chấp nhận rằng mình đã đi sai ngay từ bước rẽ đầu tiên, và rằng họ đã lãng phí biết bao nhiêu năng lượng và thời gian." (Erich Fromm, The Heart of Man: Its Genius for Good and Evil.)
Fromm cho rằng nguồn gốc của cái ác nơi con người là một tiến trình chậm rãi: rằng chúng ta không sinh ra đã là kẻ ác, cũng không bị ép buộc phải trở nên như thế, mà trở thành kẻ ác qua một chuỗi dài những lựa chọn. Tôi hoàn toàn tán đồng quan điểm này – đặc biệt là ở yếu tố lựa chọn và ý chí. Nhưng tôi cũng cho rằng nó chưa đầy đủ. Một mặt, cách nhìn ấy không tính đến những yếu tố có khả năng định hình bản chất một đứa trẻ từ khi còn rất nhỏ – khi nó chưa có cơ hội thực sự để sử dụng ý chí một cách tự do. Mặt khác, nó cũng đánh giá thấp sức mạnh của ý chí con người.
Tôi đã từng chứng kiến những trường hợp mà một cá nhân chọn làm điều ác chỉ để thực thi quyền tự do của ý chí. Dường như những người đó luôn tự nói với chính mình: “Tôi biết điều gì là đúng trong hoàn cảnh này, nhưng mặc xác các chuẩn mực đạo đức. Tôi làm điều tốt, là bởi vì nó tốt. Nhưng nếu tôi làm điều xấu, thì là vì tôi muốn thế. Tôi làm điều xấu vì đó là quyền tự do của tôi".
Malachi Martin, khi miêu tả cuộc vật lộn của một người đàn ông để thoát khỏi sự chiếm giữ tâm linh, đã đưa ra một mô tả hay nhất mà tôi biết về ý chí tự do đang hoạt động:
"Ngay lúc đó, anh ta biết được sức mạnh ấy là gì. Đó chính là ý chí. Ý chí tự chủ của anh. Chính bản thân anh, như một thực thể có quyền tự lựa chọn. Với một cái liếc nghiêng của tâm trí, anh dứt khoát gạt bỏ toàn bộ mạng lưới ảo tưởng tinh thần về động lực, hành vi, lý lẽ, những rào chắn tâm lý, đạo đức, lòng trung thành và các tín điều. Tất cả đều là cặn bã, đã bị thiêu rụi và rã rời trong ngọn lửa của trải nghiệm mà lẽ ra đã có thể thiêu đốt anh. Chỉ còn lại ý chí của anh. Chỉ còn lại sự tự do trong tinh thần. Chỉ còn lại băn khoăn rất lâu không biết liệu trong cuộc đời mình, trước đêm đó, anh đã từng thật sự có một lần nào đưa ra quyết định hoàn toàn tự do hay chưa. Bởi lẽ, nỗi đau đớn của sự lựa chọn tự do - hoàn toàn tự do - chính là điều mà anh đang trải qua. Không có bất kỳ tác nhân bên ngoài nào. Không có khuôn mẫu ký ức nào. Không có sự thúc đẩy nào từ sở thích hay thói quen. Không có lý do, không có động cơ. Không xuất phát từ mong muốn sống hay chết - bởi ngay lúc đó, anh cũng chẳng màng đến cả hai. Anh, theo một nghĩa nào đó, giống như con lừa trong triết học trung cổ: bị bỏ mặc giữa hai bó cỏ hoàn toàn tương đương, không biết phải chọn hướng nào để ăn, và rồi chết đói vì bất lực trong lựa chọn. Một lựa chọn hoàn toàn tự do... Và anh buộc phải chọn. Sự tự do để chấp nhận hoặc từ chối. Một bước tiến vào bóng tối... Tất cả dường như đang chờ đợi bước tiếp theo của anh. Của chính anh. Và chỉ của anh." (Hostage to the Devil, Bantam Books, 1977.)
Theo quan điểm của tôi, vấn đề của ý chí tự do, cũng như nhiều chân lý vĩ đại khác, vốn chứa đựng đầy nghịch lý. Một mặt, ý chí tự do là một hiện thực. Ta hoàn toàn có thể đưa ra lựa chọn mà không bị ràng buộc bởi bất kỳ yếu tố ngoại lai nào. Mặt khác, ta lại không thể tự chọn cho mình sự tự do. Chỉ có hai trạng thái tồn tại: hoặc là nhún nhường trước Thượng Đế và điều thiện, hoặc là từ chối quy phục bất kỳ điều gì trái với ý chí cá nhân – và sự từ chối này, mặc nhiên, dẫn ta vào vòng nô lệ của tà ác. Rốt cuộc, chúng ta hoặc thuộc về Thượng Đế, hoặc thuộc về quỷ dữ. Nghịch lý này, dĩ nhiên, đã được Đức Kitô nói tới: “Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất, nhưng ai vì Ta mà mất mạng sống mình thì sẽ tìm lại được". Và cũng được nhân vật Dysert thốt lên trong màn kết vở kịch Equus của Peter Shaffer: "Tôi không thể gọi điều đó là ý chỉ của Thượng Đế, tôi không vươn xa đến thế. Nhưng tôi sẽ dành ra một sự tôn kính nhất định. Giờ đây, trong miệng tôi là một sợi xích sắc bén. Và nó sẽ không bao giờ lơi lỏng". Như C. S. Lewis từng nói: “Không có một tấc đất trung lập nào trong vũ trụ: từng phân vuông, từng khoảnh khắc đều được Thượng Đế chiếm hữu, và đồng thời bị Satan tranh giành". Tôi cho rằng, trạng thái tự do đích thực duy nhất là đứng chính giữa ranh giới, không ngả về thiện, cũng chẳng nghiêng về ác. Nhưng chính trạng thái đó lại là một sự giằng xé không thể chịu đựng nổi. Như Martin đã chỉ ra: chúng ta buộc phải chọn. Lựa chọn quy phục dưới danh nghĩa này hay danh nghĩa kia.
- Lược trích từ cuốn sách “Tính bản ác” của tác giả M. Scott Peck do First News chuyển ngữ và phát hành