[Trích dẫn
[Trích dẫn "Trí tuệ xúc cảm"] Gia đình là lò luyện cảm xúc cho trẻ như thế nào?
Tác động của việc giáo dục con về xúc cảm có thể thấy ngay từ trong nôi. Những năm đầu đời là cơ hội đầu tiên để định hình những yếu tố làm nên trí tuệ xúc cảm ở trẻ, những kỹ năng xúc cảm này vẫn tiếp tục phát triển trong suốt cuộc đời. Những gì trẻ học được ở giai đoạn đầu đầu đời là nền móng để trẻ hoàn thiện trí tuệ xúc cảm sau này. 
Trí tuệ xúc cảm
(575 lượt)

 

Nắm bắt cơ sở của trí tuệ xúc cảm

 

Hãy tưởng tượng tình huống một đứa bé hai tháng tuổi thức giấc lúc ba giờ sáng và bắt đầu khóc. Mẹ bé ôm bé dỗ dành suốt nửa tiếng đồng hồ, yêu thương trìu mến nhìn bé và nói rằng mẹ rất hạnh phúc khi ở bên con, kể cả là giữa đêm. Cảm nhận tình cảm ấm áp của mẹ, đứa bé dần chìm vào giấc ngủ,

Giờ hãy xem trường hợp một em bé hai tháng tuổi khác, cũng thức dậy khóc giữa đêm, lần này mẹ bé bực dọc bước vào vì vừa mới ngủ được một tiếng đồng hồ sau trận cãi vã với chồng. Đứa bé bắt đầu căng thẳng khi mẹ bế xốc lên và nói: "Im ngay, mẹ không thể chịu được nữa đâu! Nào, nín đi, mẹ mệt lắm rồi.” Khi bé bú, mẹ bé nhìn xa xăm về phía trước chứ không nhìn con, đầu óc mải nghĩ cuộc cãi vã vừa nãy, tâm trạng ngày càng bực bội hơn. Cảm thấy được sự căng thẳng của mẹ, đứa bé ưỡn người gồng cứng, không bú nữa. “Thôi à? Không bú nữa à?” mẹ bé nói. “Thế thì thôi”. Cũng đột ngột như lúc đầu, bà mẹ đặt bé lại vào nôi và rào bước ra ngoài, để bé khóc đến khi mệt nhoài và ngủ thiếp đi.

Hai khung cảnh đó là ví dụ do Trung tâm quốc gia Nghiên cứu lâm sàng về trẻ em đưa ra để minh họa cho những hình thức tương tác mà nếu lập lại nhiều lần có thể tác động rất lớn đến xúc cảm của trẻ nhỏ về bản thân và những mối quan hệ gần gũi nhất.” Đứa bé trong trường hợp đầu tiên học được rằng có những người mà nó có thể tin tưởng rằng sẽ quan tâm và giúp đỡ nó khi cần; đứa bé ở trường hợp thứ hai thấy rằng chẳng có ai thực sự quan tâm nó, không thể dựa vào ai, và dù có cố gắng tìm kiếm sự đồng cảm thế nào cũng chỉ vô ích. Tất nhiên, hầu hết những đứa trẻ đều đã từng trải qua cả hai loại tương tác đó. Nhưng khi đó là cách đối xử điển hình của cha mẹ với con cái, đứa trẻ sẽ tiếp thu những bài học về xúc cảm và hình thành nhân thức về sự an toàn, xúc cảm của cá nhân và mối liên hệ với người khác. Erik Erikson gọi đó là việc đứa trẻ hình thành "lòng tin căn bản" hay sự bất tin căn bản.

Tất cả trao đổi giữa cha mẹ và con cái dù là nhỏ nhất đều góp phần xây dựng nền tảng xúc cảm, và qua năm tháng, những thông điệp đó sẽ hình thành nên thế giới quan và năng lực xúc cảm cốt lõi ở trẻ. Một đứa trẻ đánh vật với trò ghép hình chạy đến nhờ mẹ, phản ứng cô bé nhân phiền, mẹ còn đang có việc quan trong". Khi giao tiếp giữa bố mẹ và con được có thể là mẹ bé vui vẻ giúp con, cũng có thể là câu nói: "Đừng làm cái trở thành phố biến, đó sẽ là cái khuôn hun đúc nên tư duy xúc cảm của trẻ về các mối quan hệ và về thế giới, cả theo nghĩa tích cực và tiêu cực.

Những cha mẹ cực kỳ tệ, như chưa đủ trưởng thành, nghiện ngập, tính cách bi quan hay nóng nảy, hay đơn giản là sống bừa bãi, không mục đích, sẽ tạo nên những mối nguy hại đối với con trẻ. Họ còn lâu mới có thể chăm sóc cơ bản cho con, chứ chưa nói đến việc quan tâm nhu cầu xúc cảm của con. Nghiên cứu đã chỉ ra rằng sự lơ là còn có hai hơn là đánh mắng. Một cuộc khảo sát ở những trẻ bị ngược đãi cho thấy, trẻ bị bỏ mặc là nhóm dễ bị tổn thương nhất: dễ gặp căng thẳng, có thái độ thờ ơ và thường hung hăng hoặc sống khép kín. Tỷ lệ học lại lớp một ở nhóm trẻ này là 65%.

Ba đến bốn năm đầu đời là giai đoạn não trẻ có tốc độ phát triển nhanh nhất, lớn khoảng 2/3 kích thước so với người trưởng thành. Đó là giai đoạn mà các phương diện học học, đứng đầu là học hỏi xúc cảm diễn ra mạnh mẽ nhất. Trong khoảng thời gian đó, những căng thẳng nặng nề có thể gây tổn hại đến trung tâm học hỏi của não bộ (đồng thời cũng ảnh hưởng đến trí tuệ). Tuy nhiên, những tổn thương đó sau đó có thể ít nhiều được chữa trị, nhưng tác động của sự học hỏi giai đoạn đầu đời này vẫn vô cùng sâu sắc. Một báo cáo đã tổng kết những bài học chính trong bón năm đầu đời và nhấn mạnh về những hệ quả lâu dài:

Một đứa trẻ không thể tập trung, luôn nghi ngờ thay vì tin tưởng, luôn buồn bã, giận dữ thay vì lạc quan, luôn phá phách và không biết tôn trọng người khác. Nó thường sống trong lo âu, tưởng tượng những điều đáng sợ và nói chung luôn cảm thấy mình bất hạnh. Đứa trẻ như vậy sẽ có rất ít cơ hội, chứ chưa nói đến bình đẳng, trong việc khai phá tiềm năng cuộc sống và bản thân.

 

Nuôi dạy một đứa trẻ thô bạo như thế nào?

 

Nhiều nghiên cứu, như cuộc nghiên cứu 870 trẻ bang New York trong giai đoạn từ 8-30 tuổi, có thể cho chúng ta thấy tác hại dài lâu của việc nuôi dạy trẻ không đúng cách về xúc cảm, đặc biệt là đối với những đứa trẻ hung hăng. 10 Những đứa trẻ hiếu chiến nhất, thường sử dụng bạo lực để đạt được điều mình muốn là những đứa trẻ có nguy cơ bỏ học cao nhất, và đến khi 30 tuổi, có nguy cơ phạm tội liên quan đến bạo lực. Thói quen bạo lực đó cũng có thiên hướng trao truyền cho thế hệ sau: con cái họ ở trường cũng nóng nảy, thích vung nắm đấm như bố mẹ chúng ngày trước.

Chúng ta cần rút ra bài học từ sự di truyền của thói hung hăng. Khi đã làm cha mẹ, những kẻ hung hãn lại hành xử theo cách khiến gia đình trở thành trường học về nắm đấm. Lúc nhỏ, những đứa trẻ ngỗ nghịch từng bị cha mẹ đánh mắng không thương tiếc; khi trở thành cha mẹ, chúng lại lặp lại thói quen đó. Điều này đúng với cả người cha lẫn người mẹ có tính cách nóng nảy hiếu chiến khi còn nhỏ. Những bé gái hay bé trai hung hăng có xu hướng trở thành những bà mẹ ông bố khắc nghiệt với con cái.

Và dù chỉ chăm chăm phạt con, những ông bố bà mẹ ấy lại không hề quan tâm đến cuộc sống, thậm chí là bỏ bê chúng. Đồng thời, những vị phụ huynh đó cũng cho con cái thấy một tấm gương “sừng sững” về bạo lực và hung hăng, để làm hành trang đến trường, ra sân chơi và theo chúng suốt cuộc đời. Họ không hẳn là những bậc phụ huynh xấu xa hay ghét bỏ con cái; mà họ chỉ đơn giản đang lặp lại kiểu nuôi dạy con đã được thế hệ trước định hình.

Với mô hình nuôi dạy đầy bạo lực này, con trẻ bị gò ép trong một khuôn mẫu kỷ luật thất thường: nếu cha mẹ không vui, chúng sẽ bị phạt nặng; nhưng dù tâm trạng tốt, chúng vẫn có thể bất ngờ ăn no đòn nếu khiến cha mẹ phật ý. Hành vi trừng phạt không xuất phát từ hành động của đứa trẻ mà từ xúc cảm của cha mẹ. Điều đó tạo ra cảm giác bất lực ở trẻ nhỏ, khiến chúng ám ảnh đến mức nghĩ rằng nguy hiểm ở khắp mọi nơi và có thể ập đến bất cứ lúc nào. Khi nhìn sâu vào nền tảng gia đình, chúng ta sẽ phát hiện biểu hiện hung hăng và hiếu chiến của trẻ với thế giới xung quanh cũng là điều dễ hiểu. Đáng tiếc là những đứa trẻ đã phải những xúc cảm ấy.

 

Bạo lực triệt tiêu đồng cảm

 

Trong lúc nô đùa ở nhà trẻ, cậu bé Martin hai tuổi rưỡi va phải một bạn học, khiến cô bé òa khóc. Martin giơ tay đinh kéo bạn dậy nhưng có bé quay người, khiến Martin vô tình đánh phải tay bạn.

Cô bé tiếp tục khóc to hơn, còn Martin quay đi và hét lên: "Nín ngay! Nín ngay!” Cậu bé nhắc đi nhắc lại, mỗi lúc một to tiếng hơn.

Khi Martin định lại gần vỗ về, cô bé lại hất tay cậu bé. Lần này, Martin nhe răng ra như một chú chó đang gầm ghè, trừng mắt dọa cô bé.

Martin lại tiếp tục vỗ về bạn, nhưng cái vỗ lưng nhè nhẹ nhanh chóng biến thành những cú đập bồm bộp, Martin cứ thế tiếp tục đánh vào có bạn tội nghiệp mặc cho cô bé kêu khóc.

Cách hành xử thô bạo, khó chấp nhận đó là minh chứng cho việc bạo hành - bị đánh đập tùy theo tâm trạng của cha mẹ, có thể triệt tiêu thiên tính đồng cảm ở con trẻ như thế nào. Cách hành xử kỳ lạ đến độ hung bạo của Martin là lối ứng xử điển hình ở những đứa trẻ như nó - nạn nhân của thỏi đánh đập và bạo hành thể chất từ nhỏ. Cách phản ứng đó hoàn toàn đối nghịch với thiên hướng đồng cảm tự nhiên ở trẻ nhỏ và mong muốn an ủi vỗ về khi bạn đang khóc. Lối hành xử bạo lực của Martin có thể là phản ánh chính xác những gì cậu bé học được ở gia đình: ban đầu nhận được cử chỉ quan tâm, nhưng nếu vẫn còn chưa nín thì rất dễ bị bố mẹ trợn mắt quát mắng, đánh đập thẳng tay. Có lẽ điều đáng lo nhất là ở Martin dường như thiếu vắng hình thức đồng cảm sơ đẳng nhất - bản năng ngừng tấn công khi người khác bị đau. Chỉ mới hai tuổi rưỡi, cậu bé đã có những biểu hiện rõ rệt của một kẻ hung bạo vô cảm và tàn ác.

Sự thiếu vắng lòng thương cảm ở Martin là đặc trưng điển hình cho những đứa trẻ bị bạo hành về xúc cảm và thân thể từ khi còn nhỏ. Martin là một trong số chín trẻ như vậy ở độ tuổi từ 1-3 được quan sát trong hai giờ đồng hồ ở nhà trẻ. Những đứa trẻ thuộc nhóm bị bạo hành được so sánh với nhóm chín trẻ khác có hoàn cảnh gia đình tương tự, nhưng không bị cha mẹ bạo hành. Có sự khác biệt rất lớn ở cách hai nhóm trẻ phản ứng khi thấy một bạn bị đau hay đang buồn bã. Trong 23 trường hợp như vậy, năm trong số chín trẻ thuộc nhóm không bị bạo hành tỏ ra quan tâm, buồn hay đồng cảm với bạn. Nhưng trong 27 lần tiếp xúc tương tự, không một trẻ nào trong nhóm chín trẻ bị bạo hành có hành động quan tâm dù nhỏ nhất; thay vào đó khi thấy một bạn đang khóc, chúng thường sợ hãi, tức giận, hoặc như Martin, lao vào đánh bạn.

Ví dụ, một bé gái bị bạo hành khi thấy bạn khóc liền nhăn mặt dữ tợn, dọa dẫm bạn. Thomas một tuổi, cũng trong nhóm trẻ bị bạo hành, khi nghe thấy trong phòng có tiếng khóc, cậu bé cứng người lại vì khiếp sợ; nó ngồi im thít, khuôn mặt ngập tràn sợ hãi, lưng cứng đờ và càng lúc càng căng thẳng, như thể nó đang gồng mình chờ bị đánh vậy. Kate, bé gái 28 tháng tuổi cũng bị bạo hành, lại có phản ứng gay gắt: nó túm Joey - một em bé hơn, lấy chân đạp thằng bé ngã xuống sàn, và khi thằng bé nhìn sang thì nó bắt đầu vỗ nhè nhẹ vào lưng, rồi cứ thế tăng dần thành những cú đánh mạnh, mặc kệ thằng bé khóc nấc. Con bé tiếp tục thụi vào lưng bạn thêm sáu bảy lần, đến khi thằng bé bỏ đi mới thôi.

Những đứa trẻ đó đối xử với người khác đúng như những gì chúng bị đối xử. Biểu hiện của những đứa trẻ bị bạo hành chỉ là phiên bản cực cay nghiệt, dọa dẫm đoan hơn những gì chúng thấy ở cha mẹ - người luôn và đánh phạt chúng. Trong cuộc sống sau này, nhóm trẻ bị bạo hành có nguy cơ đối mặt với khó khăn trong việc học hành, tính tình hung bạo, bị bạn bè xa lánh (biểu hiện dữ dằn ngay từ thời mẫu giáo cũng là một chỉ báo cho tương lai), và dễ mắc trầm cảm hơn. Đến khi đã trưởng thành, chúng dễ gặp rắc rối với pháp luật và có nguy cơ phạm tội liên quan đến bạo lực. Đa phần việc mất khả năng đồng cảm này lặp lại qua nhiều thế hệ, trong đó những cha mẹ bạo lực đã từng bị chính cha mẹ họ đánh đáp khi còn nhỏ. 13 Điều đó là hoàn toàn đối lập với tính cách đồng cảm ở những trẻ có cha mẹ quan tâm và khuyến khích con thể hiện sự quan tâm đến người khác và dạy con hiểu hành động xấu tính sẽ khiến các bạn cảm thấy như thế nào. Nếu không có những bài học về sự đồng cảm, những đứa trẻ đó chắc sẽ không bao giờ học được xúc cảm ấy.

Có lẽ điều đáng quan ngại nhất ở nhóm trẻ bị bạo hành là việc chúng học được cách cư xử của cha mẹ ngay từ rất sớm. Việc bị cha mẹ đánh đập như cơm bữa là đủ rõ ràng cho bài học xúc cảm mà chúng nhân được. Xin hãy nhớ khi hưng phấn hay căng thẳng quá mức, những bản năng nguyên thủy của con người xuất phát từ hệ viền não sẽ chiếm quyền kiểm soát. Đó cũng là thời khắc bộ não xúc cảm dần khắc ghi bài học xúc cảm thành thói quen, cả tốt lẫn xấu.

Quan sát quá trình não bộ định hình bởi bạo lực hay yêu thương khiến chúng ta hiểu rằng thời thơ ấu là cánh cửa cơ hội để học những bài học xúc cảm. Ngay từ lúc nhỏ, những đứa trẻ bị bạo hành đã thường xuyên phải chịu tổn thương tinh thần. Có lẽ để định hướng quá trình học hỏi xúc cảm của những đứa trẻ bị bạo hành, chúng ta cần xem xét mức độ tai hại do những tổn thương in dấu lên não bộ và làm sao để chữa lành những vết sẹo xấu xí đó.

- Trích sách “Trí tuệ xúc cảm” của tác giả Daniel Goleman

Tags: