TÔI ĐÃ VÀO VIỆN MƯỜI HAI NGÀY rồi mà không được gặp cha mẹ. Mẹ có đến một lần để đổi cho tôi mấy bộ đồ ngủ, vì tôi làm dây máu vào những bộ đồ cũ khi kim truyền tĩnh mạch trên cánh tay bị rơi ra. Tôi nghe thấy giọng của mẹ và dù bị bắt phải nằm nghỉ trên giường nhưng tôi vẫn ra khỏi phòng và chạy về phía mẹ. Hai mẹ con đều khóc, nhưng khi chỉ còn cách mẹ vài bước chân thì tôi đã bị các y tá giữ lại.
Mỗi ngày ba bữa, một y tá ngồi trông chừng tôi ba mươi phút trong khi tôi nhìn chỗ thức ăn mà không ăn quá vài miếng. Mỗi khay thức ăn chứa ba trăm calo. Khi khay được mang đi, y tá sẽ giám sát tôi thêm bốn mươi lăm phút nữa để đảm bảo tôi không nôn ra. Tôi thậm chí còn không biết là người ta có thể chủ động nôn thức ăn ra được.
Sau gần hai tuần, tôi đã ăn hết được bữa sáng, rồi đến bữa trưa. Tôi thưởng thức những món được dọn lên, mì ống và pho mát, và ăn hết lúc nào chẳng biết. Hava viết trong nhật ký: “Mình kiểu như cũng mong chờ những bữa ăn vì đôi khi mình có thể quên đi bản thân và bắt đầu tận hưởng chuyện ăn uống”. Có lẽ tôi cũng đã nhiễm cùng kiểu niềm vui tình cờ đó. Y tá giám sát bữa ăn đã chúc mừng tôi và bảo rằng tôi đã có được một phần thưởng: Có thể gọi điện cho cha mẹ. Tôi nhớ mình đã bước đến chiếc điện thoại cạnh giường và quay số của mẹ. Khi nghe giọng mẹ cất lên, tôi thấy nhẹ nhôm đến mức không thể nói nên lời. Tôi chỉ cười.
Khi cha mẹ đến thăm tôi, họ rất thất vọng khi phát hiện ra tôi đã mắc phải một đống hành vi biếng ăn. Ngoài việc tập nhảy dang tay dang chân, tôi còn quyết không ngồi hay nằm trước chín giờ tối, tức giờ đi ngủ. Chị gái tôi, khi cuối cùng cũng được phép đến thăm, đã hiểu được sức hấp dẫn từ những người bạn mới của tôi. “Chị có hơi mê Carrie”, nhiều năm sau đó chị tâm sự với tôi. “Cô ấy rất xinh đẹp và rất ngầu, chị nhớ cô ấy có mái tóc đẹp mượt mà.” Chị tiếp: “Những cô gái đó đã chăm sóc cho em".
Cha mẹ tôi tức giận vì tôi bị những cô gái mắc cùng bệnh và lớn tuổi hơn lôi kéo. Mẹ kế nói với tôi: “Trước đó thì mọi chuyện chỉ đơn thuần là diễn tiến tinh thần – tức là chỉ xuất phát từ chính bản thân con. Con chưa đọc tạp chí và không thể có một hình ảnh người gầy lý tưởng là trông như thế nào". Còn mẹ tôi thì nói: “Mẹ thậm chí không nghĩ là con hiểu được từ gầy'. Mẹ nghĩ con chỉ không muốn bụng mình nhô ra, như bụng của mọi đứa trẻ khác".
Cha tôi là người duy nhất bác bỏ chẩn đoán bệnh của tôi. Ông nói: “Từ hồi còn rất nhỏ, con đã nói: 'Cha không phải là ông chủ của con'. Tính của con là thế". Trong “Danh sách thái độ ăn uống" mà người ta yêu cầu cha tôi điền, có một câu hỏi: “Đứa con tuổi thiếu niên của tôi có nghĩ đến việc đốt cháy calo khi tập thể dục không". Cha đã gạch bỏ từ “tuổi thiếu niên" và ghi bên lề: “Lúc trước không biết, bây giờ thì biết".
KHI CHA MẸ bắt đầu đến thăm tôi thì như thể lời nguyền đã bị phá vỡ. Mục tiêu của tôi đã thay đổi. Để tiếp tục được gặp cha mẹ, tôi bắt đầu ăn mọi thứ trên khay. Cha và mẹ được phép thăm riêng mỗi ngày, mỗi người nửa giờ, miễn là tôi ăn hết các bữa.
Bệ cửa sổ trong phòng bệnh của tôi đặt đầy những bức tượng nhỏ các nhân vật trong Pee-wee's Playhouse (tạm dịch: Ngôi nhà giải trí của Pee-wee), chương trình mà chị em tôi vẫn xem vào mỗi cuối tuần. Hầu như lần nào đến thăm tôi, cha cũng mang theo một nhân vật mới: Chairry – chiếc ghế bành; Reba – Cô Đưa Thư; Cô Yvonne, người mà Pee-wee gọi là “quý cô xinh đẹp nhất xứ Puppetland". Giờ đây, nhờ Carrie và Hava, tôi đã hiểu rằng ti-vi chỉ dành cho những “củ khoai tây nằm trên sofa", và tôi không còn cho phép mình nuông chiều thú vui này nữa. Nhưng những lần cha đến thăm, tôi vẫn cho phép mình xem ti-vi khi ông ngồi trên giường bệnh, mỗi tay cầm một bức tượng nhỏ, đóng giả các nhân vật trong chương trình bằng giọng mũi the thé.
Tôi phải đạt tới hai mươi ba ký thì mới được xuất viện - tức là tăng bốn ký so với khi mới vào. Ban đêm, tôi đến phòng y tá hỏi xin những chiếc hộp nhỏ xíu đựng bánh ngũ cốc ngọt. Khi ngoáy mũi, tôi nhét gỉ mũi vào lại để không bị hao cân. Koepke viết: "Rachel bắt đầu ăn 900 calo vào ngày thứ mười hai sau khi nhập viện và dần tăng đến mức hầu như không gặp vấn đề gì khi tiêu thụ quá 1.800 calo mỗi ngày”.
Chị tôi kể rằng lần sau cùng chị đến bệnh viện thăm tôi, chị thấy “họ đã vỗ béo em đến mức trông như thể người em độn thêm chiếc áo nỉ vậy... thật ra chỉ là cơ thể em thôi, nhưng không hiểu sao trông như vải độn”. Carrie cũng đã tăng cân đủ để chuẩn bị về nhà. Sự phục hồi của Hava thì thiếu ổn định hơn. Chị viết: “Mình cảm thấy thật điên rồ và kỳ lạ sau khi ăn – nhưng đến mình còn chẳng hiểu vì sao lại thế thì chẳng ai hiểu được. Ước gì có ai giúp được mình và thay đổi suy nghĩ của mình về mọi thứ".
Ngày 9 tháng Mười Một năm 1988, sáu tuần sau khi nhập viện, tôi được về nhà. Koepke có vẻ bi quan về triển vọng hồi phục của tôi. Ông viết: “Với không khí thù địch dữ dội" - giữa cha mẹ tôi – “và mức độ nghiêm trọng của căn bệnh, chúng tôi hết sức dè dặt về tiên lượng bệnh". Ông và nhóm điều trị gợi ý bệnh viện tâm thần sẽ là “nơi thích hợp cho Rachel". Nhưng ông ghi lại rằng cha mẹ tôi đã quyết định hoãn thực hiện "lời đề nghị đó vào lúc này”. Mẹ tôi bị sốc trước lời khuyên đó. “Mẹ sợ một khi con đã bước vào hệ thống các viện tâm thần thì sẽ rất khó có thể kéo con ra", bà kể.
Một ngày sau khi xuất viện, tôi quay lại trường học. Tôi hỏi mẹ liệu có thể nói với các bạn cùng lớp rằng tôi phải nhập viện vì viêm phổi không, nhưng bà không cho phép tôi nói dối. Vào ngày đầu tiên tôi đi học lại, mẹ đưa tôi đến tận lớp. Khi các học sinh ngồi thành vòng tròn trên tấm thảm, chúng tôi giải thích vì sao tôi nằm viện. “Đó không phải là một cuộc thảo luận dài", mẹ nhớ lại. “Không ai nói bóng gió rằng con khác biệt hoặc bị bệnh về tinh thần. Mẹ nghĩ có lẽ bọn trẻ hiểu đó là căn bệnh về thể chất. Và quả thật, con đang cần được bồi bổ."
Sợ trở thành một “củ khoai tây nằm trên sofa", tôi từ chối ngồi ở bàn học hoặc ngồi trên thảm khi có giờ sinh hoạt vòng tròn. Cô Calfin cho phép tôi đứng. Chị Elizabeth, hiện giờ là một nhà tư vấn hôn nhân, kể lại: “Em đứng theo kiểu một tay nắm lấy khuỷu tay buông thõng". Đôi khi, các bạn yêu cầu tôi đứng tránh sang bên vì tôi che mất bảng đen, tôi nhớ mình đã nghĩ rằng thực ra tôi không che tầm nhìn của họ đâu, mà chẳng qua họ chỉ muốn gây chú ý đến hành vi bất thường của tôi. Nhưng theo những gì tôi còn nhớ được thì tôi chưa bao giờ bị trêu chọc. Sau một tháng, tôi bắt đầu ngồi giống như tất cả các bạn khác. “Em đã hòa nhập lại với các bạn ở một mức độ nào đó”, cô Calfin nói, rồi giải thích thêm: “Cô chỉ muốn em cảm thấy mình lại là một phần của cộng đồng này". Mùa xuân năm đó, một nhà tâm lý viết rằng các triệu chứng của tôi đã thuyên giảm. Ông kết luận, chứng biếng ăn là một “cách đối phó với những áp lực mà cô bé cảm thấy".
Elizabeth và tôi lại chơi ô ăn quan với nhau. Chẳng bao lâu sau, chúng tôi gọi nhau là bạn thân. Elizabeth thường mời tôi ngủ lại nhà mình và chúng tôi thành lập câu lạc bộ New Kids on the Block' trong phòng thay đồ của chị ấy. Không hiểu sao trong ký ức của tôi, Hava và Elizabeth đã hòa làm một: Cả hai đều mặc bộ váy ngủ óng mượt, gầy gò và mỏng manh, mà theo mô tả của mẹ tôi là "thanh nhà". "Mình muốn được là Elizabith", tôi viết trong nhật ký. “Mình muốn có một ngôi nhà lớn hơn. Mình muốn mọi người đều thích mình."
Năm tôi học lớp Năm, mẹ kể rằng bà thấy một cô gái trông giống Carrie, mặc quần rằn ri, đang lục lọi một thùng rác ở khu trung tâm Birmingham, nơi chúng tôi sống. Tôi không tìm ra họ của Carrie – bác sĩ của chúng tôi cũng không nhớ – vì vậy tôi chưa bao giờ xác nhận được người đó có phải Carrie hay không. Tôi không có tin tức gì về Hava thêm nhiều năm nữa, cho đến khi chị ấy xuất hiện trong một bài báo trên tờ The Detroit News nói về việc xác định sớm các dấu hiệu của bệnh tâm thần ở tuổi vị thành niên. Một bức ảnh chụp chị đang đứng trước một cái hồ, tóc dài đến thắt lưng. Chị trông vẫn xinh đẹp nhưng có vẻ hơi hao mòn. Bài báo nói rằng suốt những năm tháng vị thành niên và trưởng thành, chị đã phải ra vào nhiều bệnh viện tâm thần. Chị phải bỏ ngang trung học. Chị xem chứng rối loạn ăn uống là cơ sở định nghĩa cuộc đời mình.
***
Cách đây vài năm, tôi có đến Thụy Điển để viết báo cáo về một chứng bệnh gọi là “hội chứng từ bỏ". Hàng trăm đứa trẻ từ Liên bang Xô Viết và Nam Tư cũ bị Thụy Điển từ chối tị nạn đã nằm lì trên chiếc giường của mình. Chúng không ăn. Chúng ngừng nói. Cuối cùng, chúng dường như mất khả năng di chuyển. Nhiều em còn phải dùng ống truyền thức ăn. Một số dần rơi vào trạng thái giống như hôn mê. Một đứa trẻ kể với tôi rằng trong những tháng dài nằm trên giường, em thấy như mình đang ở trong một chiếc hộp thủy tinh mỏng tanh, vùi sâu dưới đáy đại dương. Nếu nói hay cử động, em sẽ tạo ra rung động, khiến kính vỡ tan. “Nước sẽ tràn vào và nhận chết em”, cậu bé nói.
Các bác sĩ tâm thần cho rằng tình trạng này là một phản ứng với cả sự căng thẳng trong quá trình di cư lẫn sang chấn ở những quốc gia mà gia đình các em đã chạy trốn đến. Nhưng họ không thể hiểu tại sao hội chứng này chỉ xảy ra ở Thụy Điển mà không có ở bất kỳ quốc gia Bắc Âu lân cận nào khác, nơi mà những người tị nạn đến từ cùng những quốc gia này đã tìm được chốn dung thân. Khi phỏng vấn các gia đình, tôi phát hiện nhiều đứa trẻ được chẩn đoán mắc hội chứng từ bỏ cũng từng biết ai đó mắc chứng rối loạn này. Giới báo chí Thụy Điển đã có những luận điệu cho rằng bọn trẻ đang giả ốm, nhất là sau khi Thụy Điển coi hội chứng từ bỏ là căn cứ để cấp quyền cư trú. Nhưng khi gặp bọn trẻ, tôi cảm thấy chắc chắn là chúng không hề giả vờ. Chúng mất nhiều tuần, đôi khi nhiều tháng, để thoát khỏi trạng thái gần giống với hội chứng căng trương lực (catatonic) đó, kể cả khi gia đình các em đã được thông báo là có thể ở lại Thụy Điển. Những gì lúc đầu là một sự phản kháng thì giờ đây dường như đã có động lực riêng. Bọn trẻ đã trở thành những nhân vật tử đạo, một vai trò thoạt đầu có vẻ là sự giải phóng, nhưng giờ đã bắt đầu hủy hoại chúng.
Những lần trò chuyện với các gia đình và bác sĩ ở Thụy Điển đã khiến tôi phải xem xét lại trải nghiệm ban đầu của mình với chứng biếng ăn. Tôi cảm thấy có điều gì đó quen thuộc ở những đứa trẻ nhịn ăn và câm lặng tại Thụy Điển này. Trẻ con về bản chất có tính duy ngã, các em không có nhiều cách biểu hiện sự tuyệt vọng. Văn hóa định hình các hình thức thể hiện sự đau khổ. Trong cả chứng biếng ăn và hội chứng từ bỏ, bọn trẻ đều thể hiện sự tức giận và cảm giác bất lực bằng một trong những phương pháp phản kháng hiếm hoi mà chúng có được, đó là từ chối thức ăn. Các chuyên gia nói với những đứa trẻ này rằng họ đã nhận mặt đặt tên được lối cư xử của chúng rồi. Sau đó, bọn trẻ sẽ điều chỉnh chỗ nọ chỗ kia, cả hữu thức và vô thức, theo đúng như nhóm hành vi mà chúng đã được phân loại. Theo thời gian, một khuôn mẫu hành vi vốn có ý chí đã ngày càng trở nên tự động và ăn sâu.
Triết gia lan Hacking đã sử dụng thuật ngữ “hiệu ứng vòng lặp” để mô tả việc người ta bị cuốn vào những câu chuyện tự ứng nghiệm về bệnh tật. Ông viết rằng một chẩn đoán mới có thể thay đổi “phạm vi các khả năng dành cho nhân vi tính”, rằng “Chúng ta tự xây dựng bản thân theo hình ảnh mà khoa học cung cấp về những kiểu người mà mình có thể trở thành ". Trong một bài luận viết về những đứa trẻ được chẩn đoán mắc hội chứng từ bỏ ở Thụy Điển, Hacking đề cập đến thuyết đánh cược của Pascal: để tránh khả năng bị đọa xuống Địa ngục muôn đời, chúng ta nên hành xử như thể Thiên Chúa có thật, ngay cả khi ta không có bằng chứng gì về sự tồn tại của Ngài. Lâu dần, chúng ta có thể nội tại hóa đức tin mà ta đang mô phỏng đó; niềm tin của chúng ta sẽ trở nên chân thành. Hacking cho rằng một số chứng bệnh cũng đang diễn ra theo quy trình tương tự. Chúng ta tìm cách thể hiện sự đau khổ của mình bằng cách bắt chước, cho đến khi rốt cuộc ta cũng “đã học được hay – đúng hơn – 'đạt được một trạng thái tinh thần mới ".
LÚC SÁU TUỔI, có lẽ vẫn có khả năng tôi có thể trở thành một người khác chỉ bằng ý chí. Nếu tôi ở lại bệnh viện lâu hơn hoặc quay về một ngôi trường mà mọi người tỏ ra ít chào đón hơn, thì có lẽ tôi đã bước theo con đường của Hava. "Những cái nhân không đến nỗi tệ. Ít nhất chúng cũng cho bạn một danh hiệu để phấn đấu... và một căn tính!!!!", chị viết như vậy trong nhật ký.
Mẹ kế của tôi, người thực tế nhất trong gia đình, đã nói với tôi rằng từng có lúc bà nghi ngờ liệu tôi có thể trưởng thành được hay không. Có những nét tính cách nào đó của tôi khiến tôi dễ nhịn ăn vô cớ, kiểu như trong tôi có một cảm giác mơ hồ rằng kiềm chế bản thân là một điều tốt đẹp về mặt đạo đức. Nhưng tôi cũng tự hỏi liệu có phải ngay từ đầu mình đã mắc chứng biếng ăn hay không. Có lẽ ít tiếp xúc với lý tưởng về thân hình gầy gò đã khiến tôi không muốn được như thế lắm. Theo cách nói của nhà sử học Joan Jacobs Brumberg, người đã viết một cách rất hùng hồn về nguồn gốc của chứng rối loạn ăn uống, thì tôi đã được “tuyển mộ” cho chứng biếng ăn, nhưng căn bệnh này chưa bao giờ trở thành một “sự nghiệp". Nó không đem lại cho tôi thứ ngôn ngữ có thể giúp tôi hiểu bản thân.
Cảm giác thoát nạn trong gang tấc này đã khiến tôi chú tâm nhìn vào các kẽ hở trong những giai đoạn đầu của một căn bệnh, khi một chứng bệnh đang khiến ai đó héo mòn và què quặt, nhưng vẫn chưa thay đổi căn tính và thế giới xã hội của người đó. Bệnh tâm thần thường được coi là thế lực dai dẳng, khó trị, chiếm đoạt cuộc sống của chúng ta, nhưng tôi tự hỏi chính những câu chuyện chúng ta kể về chúng, nhất là ở giai đoạn đầu, có thể định hình diễn biến của chúng đến mức độ nào. Người ta có thể cảm thấy được giải thoát nhờ những câu chuyện này, nhưng họ cũng có thể bị mắc kẹt trong đó. Các bác sĩ tâm thần sử dụng thuật ngữ “nội quan" (insight) – một từ chủ chốt, gần như kỳ diệu trong lĩnh vực này – để đánh giá mức độ chân thật trong câu chuyện của mọi người về những gì đang xảy ra với tâm trí họ. Trong một bài báo chuyên để in trên The British Journal of Medical Psychology (Tạp chí Tâm lý Y khoa Anh quốc) vào năm 1934, bác sĩ tâm thần Aubrey Lewis đã định nghĩa nội quan là “cái nhìn chính xác đối với một sự thay đổi không lành mạnh ở bản thân ". Chẳng hạn, một bệnh nhân có “cái nhìn chính xác" nhận ra rằng không phải đột nhiên mà linh hồn của những người đã chết lại nói chuyện với cô ấy; đúng hơn, những giọng nói ấy là những triệu chứng mà thuốc có thể dập tắt. Khi nhập viện, mỗi bệnh nhân tâm thần đều được đánh giá về nội quan và đánh giá này đóng vai trò rất lớn trong việc quyết định có nên điều trị cho họ trái với ý muốn của họ hay không. Nhưng đa phần khái niệm này bỏ qua việc “cái nhìn chính xác" còn phụ thuộc vào văn hóa, chủng tộc, dân tộc và đức tin. Các nghiên cứu cho thấy người da màu bị đánh giá là "thiếu nội quan" thường xuyên hơn so với người da trắng, có lẽ vì các bác sĩ thấy cách thể hiện nỗi đau khổ của họ không quen thuộc, hoặc vì những bệnh nhân này có ít lý do để tin lời bác sĩ. Thẳng thắn mà nói, nội quan đo lường mức độ đồng tình của bệnh nhân đối với cách giải thích của bác sĩ.
Năm mươi năm trước, ở thời kỳ đỉnh cao của kỷ nguyên phân tâm học, nội quan được dùng để mô tả một dạng bộc lộ: những khao khát và xung đột từ vô thức trở thành hữu thức. Chẳng hạn, một bệnh nhân được cho là có nội quan nếu cô nhận ra được lòng căm hờn bị kìm nén của mình đối với người cha và tác động của thứ cảm xúc bị ngăn cấm này đối với việc hình thành tính cách của mình. Tuy nhiên, cuối cùng người ta cũng hiểu ra rằng việc có được nội quan về xung đột liên cá nhân, dù mang lại lợi ích về mặt trí tuệ, nhưng không cung cấp cách chữa trị.
Những cách giải thích bệnh tật về mặt y sinh, vốn bắt đầu thống trị vào thập niên 1980 và 1990, đã loại bỏ nhu cầu đối với kiểu nội quan này. “Cái nhìn chính xác" bắt đầu dựa trên nền tảng kiến thức mới: Bệnh nhân được xem là đã có nội quan nếu hiểu rằng chứng rối loạn của họ khởi nguồn từ những bệnh tật của bộ não. Phương pháp tiếp cận y sinh đã giải quyết được một vấn đề đạo đức – đó là tránh đổ lỗi cho bệnh nhân và gia đình họ – và nó đã được tán dương vì có tiềm năng giúp giảm kỳ thị. Báo cáo đầu tiên về sức khỏe tâm thần của Tổng Y sĩ Hoa Kỳ vào năm 1999 cho rằng kỳ thị xuất phát từ “sự tách biệt sai lầm giữa tâm trí và cơ thể như lần đầu tiên được đề xuất bởi Descartes”. Tại một cuộc họp báo, Tổng Y sĩ Hoa Kỳ đã tuyên bố rằng “không có lý lẽ khoa học nào để biện minh cho việc phân biệt giữa bệnh tâm thần với các dạng bệnh khác".
Có thể là vậy, nhưng lối tiếp cận y sinh dường như không thực sự giảm được kỳ thị. Các nghiên cứu cho thấy những ai coi bệnh tâm thần là bệnh về mặt sinh học hoặc di truyền thì ít khi đổ lỗi căn bệnh đó cho tính cách yếu đuối hoặc phản ứng theo kiểu trừng trị, nhưng có nhiều khả năng họ coi bệnh đó là ngoài tầm kiểm soát, nguy hiểm và cần xa lánh. Căn bệnh này dường như không thể khuất phục, là một tia sét không thể bẻ cong. Trong quyển hồi ký The Center Cannot Hold (tạm dịch: Tuột mất trọng tâm), Elyn Saks, một giáo sư về ngành luật, tâm lý học và tâm thần học tại Đại học Nam California, viết rằng khi nghe chẩn đoán mình mắc bệnh tâm thần phân liệt, cô cảm thấy như thể “người ta bảo rằng trong đầu tôi có điều gì đó vĩnh viễn bất ổn và mọi dấu hiệu đều cho thấy không thể văn hỏi. Hết lần này đến lần khác, tôi toàn va phải những từ như 'suy nhược', 'lạc hướng', 'mạn tính', 'thảm họa', 'tàn phá' và 'mất mát'. Cho suốt quãng đời còn lại của tôi. Suốt quãng đời còn lại của tôi.
Hava có nội quan tuyệt vời – trong nhật ký, chị thường xuyên để cập đến “sự mất cân bằng hóa học” của mình trong khi đó tôi, mới chỉ sáu tuổi, cơ bản là không có chút nội quan nào. Khi bắt đầu ăn trở lại, tôi cảm thấy như đó là một lựa chọn ngẫu nhiên. Nhưng có lẽ tôi quyết định được như vậy là vì những lời giải thích của bác sĩ chẳng có mấy ý nghĩa đối với tôi. Tôi không bị ràng buộc bởi bất kỳ câu chuyện cụ thể nào về tác động của bệnh tật đối với cuộc đời mình. Có những câu chuyện cứu vớt chúng ta, nhưng cũng có những câu chuyện nhận chìm chúng ta, và khi đang bị bệnh, thật khó mà biết đâu là đâu.
Đáng nói là các bác sĩ tâm thần hầu như không biết lý do vì sao được chẩn đoán mắc cùng một chứng bệnh mà có người thì hồi phục được, còn những người khác lại tiếp tục “sự nghiệp” bệnh tật này. Tôi nghĩ, để trả lời câu hỏi này, ta cần chú ý nhiều hơn đến khoảng cách giữa các mô hình tâm thần học đã lý giải bệnh tật với những câu chuyện mà qua đó người ta tìm được cách định nghĩa bản thân. Ngay cả khi các vấn đề về diễn giải bệnh tật chỉ là thứ yếu so với việc tìm ra phương pháp điều trị y tế hiệu quả, thì những câu chuyện này vẫn biến đổi cuộc sống của người bệnh, đôi khi theo những cách bất khả đoán, và ảnh hưởng nặng nề đến ý thức về bản thân, thậm chí đến cả mong muốn được điều trị của họ.
***
Tôi luôn bị cuốn hút trước những ca điển hình, đồng thời cũng cảm thấy phấn khích trước bức tranh mà chúng thể hiện về một thế giới khép kín, chỉ đúng cho một người và gói gọn trong một cách giải thích. Tôi tự hỏi liệu chúng tôi, những người viết về bệnh tâm thần, có quá thường xuyên vội tin vào những dấu hiệu của bệnh lý tâm thần hay không. Những câu chuyện về bệnh tâm thần thường mang đặc tính cá nhân; bệnh lý phát sinh từ bên trong và người bệnh cũng chịu đựng nó một cách âm ỉ, âm thầm. Nhưng những câu chuyện này đã bỏ qua việc người ta sống ở đâu, sống như thế nào và căn tính của họ phản ánh cách người khác nhìn nhận họ ra sao. Bệnh tật của chúng ta không chỉ nằm trong hộp sọ, mà còn được tạo ra, được duy trì thông qua các mối quan hệ và cộng đồng của mỗi người. Mặc dù một mô hình thuần túy tâm thần học về tâm trí có thể cần thiết cho sự sống sót của những người bệnh tâm thần, thì tựa đề của quyển sách này, Người lạ với chính ta – lấy từ nhật ký của Hava - là một lời nhắc nhở rằng lối tiếp cận này cũng có thể khiến chúng ta đi xa khỏi nhiều phạm vi hiểu biết cần thiết để liên tục duy trì ý thức về bản thân, đặc biệt là trong thời kỳ bệnh tật hoặc khủng hoảng.
Trong một bài luận có tựa đề The Hidden Self (tạm dịch: Cái tôi ẩn giấu), William James viết rằng “lý tưởng của mọi ngành khoa học là lý tưởng về một hệ thống chân lý khép kín và hoàn thiện". Theo ông, các học giả đạt được mục tiêu này chủ yếu là nhờ bỏ qua cái mà ông gọi là “phần dư không xếp được vào loại nào” – những triệu chứng và trải nghiệm không “vừa vặn với hình thức lý tưởng này”. Quyển sách bạn đang đọc nói về những người đang phải đấu tranh với chứng bệnh tâm thần nằm ngoài “hệ thống chân lý khép kín và hoàn thiện" ấy. Cuộc sống của họ diễn ra ở những thời đại và nền văn hóa khác nhau, nhưng họ cũng có chung một bối cảnh: miền biên viễn tinh thân – nằm ngoài rìa trải nghiệm của con người, nơi ngôn ngữ có xu hướng không thể thực hiện vai trò. Đối tượng mà tôi chọn là những người đã cố gắng viết ra để vượt qua cảm giác bất khả diễn giải; quyển sách này không chỉ được rút ra từ những cuộc trò chuyện với họ, mà còn từ nhật ký, thư từ, hồi ký chưa xuất bản, thơ và lời cầu nguyện của họ. Họ đã vượt qua những giới hạn trong cách hiểu của giới tâm thần học về bản thân họ và đang tìm kiếm một góc nhìn phù hợp để lý giải – hóa học, sự sống, văn hóa, kinh tế, chính trị – để hiểu về chính mình giữa thế giới này. Nhưng những cách giải thích khác nhau này không loại trừ lẫn nhau; đôi khi tất cả đều có thể đúng.
Đôi lúc, với mỗi cuộc đời mà tôi viết ra đây, cuộc đời nào tôi cũng muốn dành nguyên cả quyển sách cho nó, nhưng tôi còn muốn nhấn mạnh đến sự đa dạng trong trải nghiệm với bệnh tâm thần, đến thực tế là cùng một câu hỏi nhưng xem xét từ những góc độ khác nhau thì câu trả lời cũng sẽ khác nhau. Quyển sách bắt đầu bằng câu chuyện về một người đàn ông bị giằng xé giữa những cách lý giải chủ đạo của thế kỷ 20 về nỗi đau tinh thần – bằng tâm động học (psychodynamic) và hóa sinh học (biochemical). Các chương còn lại vượt ra khỏi hai cách lý giải phổ biến này: một nhân vật cố gắng hiểu mình là ai trong mối quan hệ với đạo sư và các vị thần của cô; một người khác nghĩ về lịch sử phân biệt chủng tộc của đất nước và cách lịch sử ấy định hình tâm trí cô; một người nữa thì bám quá chặt vào các khái niệm tâm thần học đến mức cô không biết dùng nó để giải thích nỗi đau khổ của chính mình. Về mặt này, quyển sách nói về những câu chuyện đang bị bỏ qua, những khía cạnh trong căn tính mà các lý thuyết về tâm trí của chúng ta không nắm bắt được. Không thể quay ngược thời gian để khám phá những cảm xúc cơ bản tồn tại trước khi một câu chuyện được kể – khi cảm giác lo lắng, cô đơn và mất phương hướng của một người vẫn chưa được đặt cho một cái tên và chưa được đinh trong một khuôn khổ - nhưng tôi thấy mình đang tìm kiếm khoảng cách giữa trải nghiệm thực tế với những câu chuyện đang được dùng để xâu chuỗi nỗi đau của họ, những câu chuyện mà đôi khi còn xác định phương hướng cuộc đời họ.
Khi tạo ra một ngôn ngữ chung, ngành tâm thần học đương đại có thể đã làm vơi đi nỗi cô đơn của con người, nhưng chúng ta có thể xem nhẹ tác động từ những cách giải thích vốn không hề trung lập của nó: Chúng thay đổi những loại câu chuyện về bản thân – thứ được coi là “nội quan", và thay đổi cách chúng ta hiểu về tiềm năng của mình. Ray Osheroff, nhân vật của chương đầu tiên, đang cố gắng hiểu ý nghĩa của hai mô hình tâm trí trái ngược nhau, cả hai đều không cắt nghĩa được sự đau khổ của ông. “Tôi có thực sự là thế này không?", Ray hỏi. “Tôi không phải thế này sao? Vậy thì tôi là gì?"
HỒI TÔI MƯỜI MẤY TUỔI, mẹ tôi, một giáo viên tiếng Anh trung học, đã đề nghị cùng tôi viết một quyển sách gồm các chương xen kẽ về trải nghiệm của tôi khi là người trẻ nhất đất nước (theo như chúng tôi biết) được chẩn đoán mắc chứng biếng ăn. Tôi gạt phăng ý tưởng đó vì nó khiến tôi thấy xấu hổ. Hai chục năm sau, mẹ tôi rất ngạc nhiên khi tôi thông báo với bà rằng giờ đây tôi đã viết về quãng đời đó. Tôi cũng rất ngạc nhiên trước sự sáng tỏ mà việc viết lách này mang lại cho mình. Một cảm giác sâu thẳm kỳ lạ mở ra khi tôi nghĩ về cuộc sống hiện tại của mình, và việc suýt chút nữa thì nó đã rẽ sang một hướng khác thế nào – như chuyện đã xảy với Hava, câu chuyện mà tôi sẽ quay lại ở phần kết. Ranh giới giữa vùng biên viễn tinh thần và khung cảnh mà chúng ta gọi là bình thường là thứ có thể thấm nhiễm được, một thực tế mà tôi thấy vừa ám ảnh vừa đầy hứa hẹn. Thật sửng sốt khi nhận ra chúng ta đã tránh né hoặc bỏ lỡ một cuộc đời hoàn toàn khác biệt chỉ trong gang tấc như thế thế nào.
- Lược trích từ cuốn sách “Người lạ với chính ta” của tác giả Rachel Aviv do First News chuyển ngữ và phát hành tại Việt Nam