Những trích dẫn giúp bạn bước đầu hiểu được tinh thần của cuốn sách “Hiểu về sự chết” 
Những trích dẫn giúp bạn bước đầu hiểu được tinh thần của cuốn sách “Hiểu về sự chết” 
Tác giả Sherwin B. Nuland viết cuốn sách “Hiểu về sự chết” nhằm vén bức màn bí ẩn của quá trình chết, nhưng mục đích không phải là miêu tả cảnh tượng kinh hoàng của quá trình giảm sút sức khỏe đầy đau đớn và ghê rợn, mà là trình bày nó ở góc độ thực tế sinh học và lâm sàng, đúng như những gì những người đã chứng kiến và trải qua nó nhìn thấy và cảm nhận được. 
Hiểu Về Sự Chết
(12 lượt)
Bản tính của con người là tò mò. Tò mò về cái chết, nhưng lại sợ phải chết. Âu cũng là dễ hiểu khi các nhà thơ, nhà văn thường viết về cái chết, nhưng hiếm khi chứng kiến nó, còn các bác sỹ và y tá thấy nó thường xuyên thì lại hiếm khi viết về nó.

Cuốn “Hiểu về sự chết” chính vì vậy là một của hiếm. Bởi lẽ, nó được chắp bút bởi một giáo sư lâm sàng về phẫu thuật, một người không phải thường xuyên nhưng chắc chắn đã chứng kiến nhiều người ra đi hơn chúng ta. Ông viết cuốn sách này nhằm vén bức màn bí ẩn của quá trình chết, giúp chúng ta – những người luôn tò mò về cái chết – hiểu rõ những đặc trưng của tiến trình mà ai trong chúng ta rồi cũng sẽ phải trải qua khi dần chết đi. Chết có nghĩa là sự ngừng trệ của hệ tuần hoàn, là hiện tượng thiếu sự vận chuyển oxy tới các tế bào, là sự lụi dần của chức năng não bộ, là sự suy yếu của các bộ phận cơ thể, là sự phá hủy các tế bào sống. Một sự thật không thể trần trụi hơn, một chủ đề thuần khoa học như thế nhưng lại được trình bày không hề khô khan, thậm chí ngược lại còn sâu lắng, chạm đến trái tim người đọc.

Những cái chết được miêu tả trong cuốn sách, dù là chết vì tuổi già, vì ung thư, vì AIDS, vì tai nạn, vì bệnh Alzheimer, vì bệnh tim hay vì đột quỵ, qua sự am hiểu và đồng cảm của tác giả đều không còn đáng sợ như chúng ta vẫn tưởng. Để rồi, khi đọc xong cuốn sách, chúng ta có thể thốt lên “À, ra là vậy. Hóa ra chết là như thế!” Bởi lẽ chúng ta đã được thảo luận thẳng thắn, chi tiết nhất về cái chết, đã phần nào được thỏa trí tò mò về cái chết, nên chúng ta đã được chuẩn bị tâm lý để đối phó với vấn đề chúng ta sợ hãi nhất.

Có thể nói dư âm đọng lại khi đọc xong “Hiểu về sự chết” là ám ảnh. Ám ảnh nhưng thỏa trí tò mò.

Những trích dẫn dưới đây từ cuốn sách “Hiểu về sự chết” sẽ phần nào giúp bạn nắm bắt tinh thần của cuốn sách này. 

1/ Mọi cuộc đời đều khác biệt so với những cuộc đời đã qua trước nó và mọi cái chết cũng vậy. Sự độc nhất vô nhị của mỗi người chúng ta thậm chí còn kéo dài đến tận cách chúng ta chết. Mặc dù hầu hết mọi người đều biết rằng có nhiều bệnh tật khác nhau đưa chúng ta tới giờ phút lâm chung bằng những con đường khác nhau, nhưng rất ít người hiểu được tường tận sự phong phú của hằng hà sa số những con đường mà sức mạnh cuối cùng của linh hồn con người có thể bứt ra khỏi thể xác. Cái chết xuất hiện trước mỗi một người lại mang đến một diện mạo khác, cũng giống như mỗi chúng ta có một diện mạo riêng khi xuất hiện trước mặt mọi người. Mỗi người đàn ông sẽ về trời theo cách mà đến trời cũng không biết, mỗi người phụ nữ sẽ đi tới chặng đường cuối cùng theo cách riêng của họ.
2/ Các nhà thơ, nhà văn, nhà sử học, những người vui tính và những người thông minh thường viết về cái chết nhưng hiếm khi chứng kiến nó. Các bác sĩ và y tá thấy nó thường xuyên thì lại hiếm khi viết về nó. Đa phần mọi người đều chứng kiến nó một hoặc hai lần trong đời, trong những tình cảnh mà họ quá rối trí với những cảm xúc mãnh liệt, nên không thể lưu giữ được những ký ức đáng tin cậy.
3/ Nhưng thực tế, chết không phải là một cuộc đối đầu. Nó chỉ là một sự kiện trong chuỗi các sự kiện tuần tự nhịp nhàng của tự nhiên. Không phải cái chết mà bệnh tật mới là kẻ thù thật sự, mới là thế lực quái ác đòi hỏi sự đối đầu. Cái chết là sự dừng xuất hiện khi cuộc chiến kiệt quệ đã qua đi. Thậm chí cuộc đối đầu với bệnh tật cũng nên được tiếp cận với nhận thức rằng có nhiều bệnh tật của loài người chúng ta chỉ là một phương tiện trong cuộc hành trình bất khả kháng mà theo đó mỗi người chúng ta trở về trạng thái không tồn tại về vật chất, và có lẽ cả về linh hồn, giống như trạng thái mà từ đó chúng ta xuất hiện khi được thụ thai. Mỗi chiến thắng trước một số bệnh lý nghiêm trọng, cho dù có vẻ vinh quang đến đâu, cũng chỉ là một sự trì hoãn trước cái chết không thể nào tránh khỏi.

4/ Cái chết của bạn là một phần trong trật tự của vạn vật, nó là một phần sự sống của thế giới… nó là điều kiện cho sự tạo thành của bạn.”... “Hãy nhường chỗ cho những người khách, như những người khác đã nhường chỗ cho bạn.”

Montaigne tin rằng, trong thời đại bạo lực và bất ổn này, cái chết là dễ dàng nhất đối với những người trong suốt cuộc đời mình đã trao cho nó nhiều suy nghĩ nhất, như thể luôn luôn sẵn sàng cho việc nhất định nó sẽ tới. Ông đã viết, chỉ bằng cách này mới có thể chết “một cách nhẫn nại và yên bình”, sau khi đã trải nghiệm cuộc sống trọn vẹn hơn nhờ nhận thức không ngừng rằng cái kết có thể tới sớm. Từ triết lý này, ông hình thành lời khuyên của mình: “Sự hữu dụng của cuộc sống không cốt ở độ dài ngày tháng, mà ở việc sử dụng thời gian; một người có thể có tuổi thọ rất cao nhưng lại chẳng sống được bao nhiêu.

5/ Phẩm giá là thứ gì đó, John nói, mà những người sống sót cứ bám lấy – nó chỉ tồn tại trong tâm trí họ thôi, nếu nó có tồn tại đi nữa:

Những người bị bỏ lại chúng ta tìm kiếm phẩm giá để không nghĩ tiêu cực về mình. Chúng ta cố gắng chuộc lại sự bất lực của người bạn đang hấp hối của mình trong việc giành lấy một mức độ phẩm giá nhất định, có lẽ bằng cách áp đặt nó lên anh ta. Đó là chiến thắng khả dĩ duy nhất của chúng ta đối với tiến trình khủng khiếp của cái chết kiểu này. Với một căn bệnh như AIDS, chúng ta cần đối phó với nỗi buồn đau nhói lên khi chứng kiến một người bạn yêu quý mất đi cá tính, sự độc đáo của mình. Tới lúc cuối cùng, anh ấy cũng chẳng khác gì người gần đây nhất vừa trải qua chuyện này mà anh chứng kiến. Anh cảm thấy buồn vì phải chứng kiến ai đó mất đi cá tính riêng của họ và trở thành một vật mẫu lâm sàng.

Bao nhiêu phần trong “cái chết tốt đẹp” là cho người đang hấp hối và bao nhiêu phần là vì người đang giúp đỡ anh ta? Những điều này hiển nhiên có liên quan với nhau, nhưng câu hỏi đặt ra là bao nhiêu. Theo tôi, khái niệm về cái chết tốt đẹp nói chung không phải là điều có thể kiểm soát dễ dàng đối với một người đang hấp hối. Một “cái chết tốt đẹp” chỉ mang tính tương đối, và ý nghĩa thực sự của nó chỉ là giảm đi tình trạng lộn xộn nhếch nhác mà thôi. Không có nhiều điều để anh có thể xoay sở ngoài cố gắng giữ cho mọi thứ ngăn nắp và không đau đớn – giữ cho ai đó không cô đơn. 

Nhưng tiến dần tới những khoảnh khắc cuối cùng này, tôi nghĩ, thậm chí tầm quan trọng của việc không để cho ai đó cô đơn cũng là điều chúng ta suy luận ra thôi.

Khi hồi tưởng lại, và theo cách nào đó thì điều này nghe thật bạo tàn, kinh nghiệm của chính tôi là, cách duy nhất chúng ta có để biết liệu chúng ta có vừa giúp ai đó có một cái chết tốt đẹp hơn không là liệu chúng ta có cảm thấy hối tiếc hay không, hay liệu có điều gì mà chúng ta còn cảm thấy hối hận hay còn chưa làm không. Nếu chúng ta có thể chân thành nói rằng mình đã không bỏ lỡ cơ hội để làm những gì có thể, chúng ta đã làm điều tốt nhất có thể rồi. Nhưng thậm chí ngay cả điều đó, với tư cách là một thành quả tuyệt đối, cũng chỉ có giá trị tuyệt đối với bản thân người đó mà thôi. Điều còn lại với anh vào lúc cuối cùng là một tình huống không thể khiến ai hạnh phúc được. Thực tế là anh đã mất ai đó. Không có cách nào để cảm thấy dễ chịu về điều ấy.

Một mối gắn kết mà chúng ta thực sự cần phải tin tưởng là hoàn toàn không thể bị phá vỡ trong cái chết chính là tình yêu. Nếu vào những khoảnh khắc bí ẩn dẫn tới cái chết này, bạn cảm thấy mình đang trao đi tình yêu, thì tôi cho rằng đây chính là điều khiến cho cái chết được “tốt đẹp”, nếu thực sự có bất cứ điều gì làm được việc đó. Nhưng nó là một phẩm tính rất chủ quan.

6/ Kent chết giữa bạn bè, những người đã giúp giữ cho anh sống trong hai năm cuối đời. Anh không nằm trong số nhiều người đồng tính và nghiện ma túy bị gia đình tẩy chay – anh là người con duy nhất của một cặp vợ chồng luống tuổi và họ đã mất nhiều năm trước. Không có sự tận tụy của bạn bè, cái chết của anh và cả cuộc sống của anh nữa, sẽ nhanh chóng bị lãng quên.

Không nên hiểu là những gì được viết ra đây nhằm ám chỉ rằng các gia đình truyền thống hiếm khi quan tâm tới chăm sóc con cái (hay chồng hoặc vợ) chết vì AIDS. Ngược lại thì đúng hơn. Gerald Friedland miêu tả sự quay trở lại, sự đoàn tụ của các vị phụ huynh, cụ thể là những bà mẹ, với những đứa con nhiều năm trước họ đã chối bỏ. Đây là sự thật không chỉ những gia đình của những người đàn ông đồng tính mà ở cả gia đình của những người nghiện nữa. Tất nhiên, không phải tất cả những người đồng tính và không phải tất cả những người nghiện đều chia cắt với nguồn cội của mình, vì vậy mà không hiếm chuyện một người trẻ tuổi mắc AIDS dành những tháng cuối cùng của mình trong vòng tay chăm sóc ủng hộ của anh chị em hay bố mẹ, đôi khi cùng với một nhóm nhỏ những bạn bè của con cái họ hoặc với một người yêu dấu. Thông thường một vị phụ huynh thuộc tầng lớp trung lưu sẽ dễ từ bỏ công việc hoặc một mái ấm xa xôi hơn so với các thành viên của một gia đình đến từ một khu ổ chuột, nơi thậm chí chỉ một ngày nghỉ việc thôi cũng đồng nghĩa với việc mất đi không chỉ nguồn thu nhập mà có thể là cả chính công việc với đồng lương rẻ mạt ấy nữa. Tôi đã từng trò chuyện với những người mẹ có bốn đứa con cùng bị chết vì AIDS – sự tàn bạo của virus này đã chạm tới mức độ vượt quá bất cứ thực tế nào có thể tưởng tượng được.

Ở bên giường bệnh của những người trẻ tuổi đang hấp hối, những người mẹ, người vợ, người chồng và người thân yêu – chị em gái, anh em trai, và bạn bè – túc trực, đang làm những gì có thể để xoa dịu bớt những cuộc tấn công dữ dội của cái chết đây hỗn loạn. Năm tháng trôi qua, khi đứa con bị ốm thập tử nhất sinh, những lời thì thẩm của bậc cha mẹ được lắng nghe. Đó là những lời động viên nhẹ nhàng và là những lời cầu nguyện.

Gerald Friedland nói về “sự đảo ngược của vòng đời mong đợi” – cha mẹ đang chôn cất con cái mình. Một sự lầm lạc đã tái diễn từ những thế kỉ trước, ngay khi chúng ta kết luận một cách thỏa nguyện rằng, nền khoa học của chúng ta đã chiến thắng nó. Không chỉ có virus lật ngược trở lại, mà cả khuôn mẫu của logic tự nhiên, mà theo đó tuổi trẻ nên chôn cất tuổi già, cũng vậy. Cuối cùng cũng có một bài học ẩn dụ ở đây – trong liệu pháp mà hiện tại là cách thức tốt nhất của chúng ta để ức chế sự lan truyền HIV: Với AZT và các thuốc khác, chúng ta cố gắng dừng sự sao chép ngược lại, bởi vậy cũng dừng cả sự đảo ngược đã lật ngược vòng đời lại. Kế hoạch của chúng ta phát huy tác dụng, nhưng không tốt như chúng ta muốn, và cái chết tiếp tục theo đuổi những người trẻ tuổi và thậm chí rất trẻ, trong khi những người lớn tuổi hơn chỉ có thể đứng đó và than khóc.

Chẳng ai biết phẩm giá hay ý nghĩa nào có thể được rút ra từ cái chết như vậy, ngoại trừ những người đã dành cuộc đời để nắm chặt lấy cuộc sống vừa mất đi. Những người trẻ tuổi đang chăm sóc y tế cho những người trẻ tuổi đang chết – và ở đây tôi nói tới không chỉ các bác sĩ và y tá, mà tới tất cả những người cán bộ nhân viên tận tụy - nhìn ngắm và tự hỏi rằng, liệu lòng vị tha như vậy tồn tại trong thế giới mà họ được dạy dỗ có phải là đáng hoài nghi không. Những việc làm hằng ngày của chính họ đã xoá bỏ sự hoài nghi đó – họ cũng là những người anh hùng theo một nghĩa nào đó. Chủ nghĩa anh hùng của họ rất thức thời và độc nhất đối với con đường mà họ đã chọn – trở thành những người hoạt động trong lĩnh vực y tế, những người đã chiến thắng nỗi sợ hãi của chính mình, vượt qua cảm giác dễ bị tổn thương của mình vì lợi ích của những người mắc bệnh AIDS. Họ không đưa ra những phán xét về đạo đức – họ không phân biệt các tầng lớp xã hội, cách nhiễm bệnh, hay tư cách thành viên của các nhóm được liệt vào dạng nguy hiểm. Camus đã miêu tả rất đúng: “Điều gì đúng về tất cả các tội ác trên thế giới cũng là đúng về bệnh dịch. Nó giúp cho con người vượt lên trên chính họ.

7/ Chúng ta chịu đựng không chỉ nỗi đau khổ và buồn rầu khi chào biệt cuộc đời. Trong những gánh nặng nặng nề nhất là thiên hướng dễ hối tiếc – một vấn đề đáng được nhắc tới ở đây. Dù cái chết là điều không thể tránh khỏi, và trước đó chắc chắn đã là cả một giai đoạn khó khăn, đặc biệt với những người bị ung thư, có những phần tăng thêm trong hành lý mà tất cả chúng ta sẽ mang theo xuống mồ, nhưng chính từ đó, chúng ta có thể dẹp bỏ phần nào chướng ngại nếu chúng ta lường trước được chúng. Ở đây, tôi muốn nhắc tới những xung đột không được giải quyết, những mối quan hệ bất hòa không được hàn gắn, những nhiệm vụ không thể hoàn thành, những lời hứa không được thực hiện, và những năm tháng sẽ không bao giờ được trải qua. Đối với hầu hết mỗi người trong số chúng ta, sẽ luôn có việc còn dở dang. Chỉ những người rất già mới thoát được nó, thậm chí cả điều này cũng không phải lúc nào cũng đúng.

Có lẽ, bản thân sự tồn tại đơn thuần của những việc còn dở dang nên là một kiểu thỏa nguyện, mặc dù ý tưởng có vẻ ngược đời. Chỉ một người đã chết từ lâu trong khi vẫn có vẻ như đang sống mới không có nhiều “lời hứa phải thực hiện, và nhiều chặng đường phải đi trước khi chìm vào giấc ngủ”, và tình trạng ì trệ đó là điều không mong muốn. Với lời khuyên khôn ngoan là chúng ta hãy sống mỗi ngày như thể đó là ngày cuối cùng, sẽ rất bổ ích nếu chúng ta thêm vào lời răn hãy sống mỗi ngày như thể chúng ta sẽ ở trên trái đất này mãi mãi.

Cũng sẽ tốt nếu chúng ta tránh đi một gánh nặng không cần thiết khác bằng việc ghi nhớ lời cảnh cáo của Robert Burns (người đã góp phần lớn vào nên thi ca và âm nhạc truyền thống Anh.) về những kế hoạch được sắp xếp tốt nhất. Cái chết hiếm khi, nếu không nói là chưa từng, diễn ra theo đúng kế hoạch của chúng ta hay thậm chí là với mong đợi của chúng ta. Ai cũng mong muốn được chết theo cách phù hợp, một phiên bản hiện đại của ars moriendi (nghệ thuật về cái chết) và vẻ đẹp của những khoảnh khắc cuối cùng. Từ khi loài người bắt đầu biết viết, họ đã ghi lại nguyện ước của mình về một cái kết lý tưởng mà một vài người gọi là "cái chết đẹp" như thể bất cứ ai trong chúng ta cũng có thể chắc chắn về nó hay có bất cứ lý do nào để trông đợi nó. Có những cạm bẫy trong việc đưa ra quyết định né tránh và vô số hy vọng khác nhau để tìm kiếm, nhưng trên cả điều đó, chúng ta phải tha thứ cho bản thân khi không thể giành được một hình ảnh đã định trước về một cái chết đúng đắn nào đó.

Tự nhiên có việc phải làm. Nó làm công việc của mình bằng phương pháp có vẻ phù hợp hoàn toàn với từng cá nhân mà quyền năng của nó đã tạo ra. Nó đã tạo ra người này dễ mắc bệnh tim, người kia dễ bị đột quỵ và những người nọ thì dễ bị ung thư, một số người sống một thời gian dài trên trái đất này và một số người thì lại sống thời gian rất ngắn ngủi, ít nhất là theo thước đo của chính chúng ta. Sự hài hòa của thế giới sinh vật đã tạo ra điều kiện mà theo đó, thế hệ này được nối tiếp bằng thế hệ tiếp theo. Chống lại sức mạnh và chu trình không ngưng nghỉ của tự nhiên sẽ không có chiến thắng lâu dài

Khi khoảnh khắc cuối cùng xuất hiện và không thể thoát khỏi nhận thức rằng chúng ta đã chạm tới điểm mà như Jochanan Hakkadosh của Browning (nhà thơ và nhà viết kịch người Anh (1812-1889)) tả: “đặt chân lên con đường làm toàn bằng xác thịt”, phận sự của chúng ta là nhớ rằng, nó không chỉ là con đường toàn xác thịt mà còn là con đường của tất cả cuộc đời, và nó có kế hoạch riêng của nó cho chúng ta. Mặc dù chúng ta tìm ra những cách khôn ngoan để trì hoãn, nhưng không có cách nào để xóa bỏ những kế hoạch này. Thậm chí cả những hành động tự sát cũng phải đầu hàng chu trình, và theo những gì chúng ta được biết thì, tác nhân kích thích thực hiện những hành động đó đã được thiết kế sẵn trong một kế hoạch lớn nào đó, một ví dụ khác về những quy luật không thể thay đổi được của tự nhiên và sự hài hòa trong thế giới sinh vật của nó. Julius Caesar của Shakespeare ngẫm nghĩ rằng:

Trong tất cả những điều kỳ diệu ta từng nghe,

Dường như với ta điều kỳ lạ nhất là con người lại sợ hãi

Khi chứng kiến cái chết, một kết thúc tất yếu,

Sẽ tới khi nào nó tới.

- Trạm Đọc

 

Tags: