“Thoáng thấy thiên tài”: Những truyện ngắn chưa từng xuất bản được tìm thấy trong căn hộ của Harper Lee tiết lộ gì về tác giả Giết con chim nhại?
“Thoáng thấy thiên tài”: Những truyện ngắn chưa từng xuất bản được tìm thấy trong căn hộ của Harper Lee tiết lộ gì về tác giả Giết con chim nhại?
Khi qua đời, nữ nhà văn để lại một kho báu gồm sổ tay và bản thảo chưa từng công bố. Nhà viết tiểu sử của bà tiết lộ những gì chúng cho thấy về hành trình vươn tới đỉnh cao văn chương tưởng như không thể của bà.
Khi “Giết con chim nhại” (To Kill a Mockingbird) ra mắt vào mùa hè năm 1960, nó dường như xuất hiện từ hư không - như một nữ thần Athena của Alabama: một tiểu thuyết hoàn chỉnh, trọn vẹn từ một tác giả miền Nam vô danh, không có dấu vết tiền thân hay ảnh hưởng rõ rệt nào. Cuốn sách vừa gắn chặt với thời đại của nó, vừa vượt thời gian: phản ánh những biến động dữ dội nhất của thế kỷ, đồng thời cất tiếng nói muôn đời về sự thức tỉnh đạo đức của tuổi thơ, tình yêu gia đình bền chặt, và những xung đột giữa cá nhân và xã hội.

Nhưng không một nhà văn nào là không có ảnh hưởng và khát vọng, Harper Lee, dĩ nhiên, đến từ một nơi nào đó và đã làm việc vô cùng chăm chỉ để trở thành “ai đó”. Chỉ vì bà không thích nói về bản thân mà nguồn gốc của bà trở nên bí ẩn. Và hiển nhiên, “Giết con chim nhại” càng thành công: trở thành sách bán chạy, rồi đoạt giải Pulitzer, bán được 1 triệu, rồi 10 triệu, rồi 40 triệu bản thì càng có nhiều giả thuyết và lời đồn nổi lên để lấp đầy sự im lặng của bà. 

Trong những năm sau khi cuốn sách ra đời, hình ảnh công chúng về Harper Lee dao động giữa hai nhân vật mà bà yêu thích nhất: bà vừa là hiện thân sống động của cô bé Jean Louise “Scout” Finch bướng bỉnh, gan lì; vừa như phiên bản đời thực của Arthur “Boo” Radley - người đàn ông nhút nhát, ẩn mình trong bóng tối.

Vì thế, thật phấn khích khi giờ đây người ta được “mở nắp” một chiếc hộp thời gian từ buổi đầu sự nghiệp của Lee: một tuyển tập những truyện ngắn sớm nhất của bà, lần đầu tiên được in thành sách, giúp lý giải hành trình cô bé đến từ khu South Alabama Avenue đã biến mình thành một tác giả best-seller như thế nào. 

Được viết trong thập niên trước khi “Giết con chim nhại” ra đời, sau khi bà chuyển đến New York vào năm 1949. Những truyện này đã hé lộ vài nhân vật và bối cảnh sau này trở nên nổi tiếng, đồng thời cho thấy những mâu thuẫn và xung đột mà bà dành cả đời để tìm cách hóa giải.

 

Nelle Harper Lee – cô gái Alabama đã biến tuổi thơ thành huyền thoại văn chương

 

Nelle Harper Lee sinh ngày 28 tháng 4 năm 1926, là con út trong bốn người con của Amasa Coleman Lee và Frances Cunningham Finch. Kém người anh chị cả tới 15 tuổi, cô lớn lên trong cảm giác như mình có một tuổi thơ riêng biệt ở thị trấn nhỏ Monroeville, bang Alabama. 

Vì các anh chị đều đã trưởng thành, cô chứng kiến từng người lần lượt thực hiện những giấc mơ của cha mẹ: chị cả Alice theo nghiệp luật sư cùng cha, chị Louise lập gia đình hạnh phúc và làm nội trợ, còn anh Edwin phục vụ anh dũng trong Thế chiến II.

Trong một thời gian dài, Lee dường như là “niềm thất vọng lớn” của gia đình: cô bỏ học tại Đại học Alabama khi chỉ còn một học kỳ nữa là tốt nghiệp, chạy trốn lên phương Bắc “tai tiếng”, và từ bỏ tấm bằng luật mà cha cô từng hy vọng có thể thêm chữ “s” vào bảng hiệu “A.C. Lee and Daughter”. Nhưng dù công ty luật đó không thành hiện thực, Lee cuối cùng vẫn tạo ra một trong những luật sư được ngưỡng mộ nhất nước Mỹ – Atticus Finch.

Dù chưa từng học sáng tác chính quy, Lee đã tự rèn kỹ năng viết trong những năm học ở Tuscaloosa. Cô có chuyên mục thường kỳ trên tờ The Crimson White của trường, và còn viết cho tạp chí hài hước sinh viên Rammer Jammer, nơi cô sau này trở thành tổng biên tập.

Ngay từ khi ấy, trí tò mò không ngừng và tầm hiểu biết rộng của cô đã thể hiện rõ: trong một bài phê bình phim Anh, một bản nhại Shakespeare, hay một bài châm biếm tờ báo địa phương do chính cha cô sở hữu. Lee nổi tiếng khác biệt: cô mặc quần jeans, quần short Bermuda khi phụ nữ bị cấm mặc gì ngoài váy, và từng khiến cả khuôn viên trường sốc khi ngồi trên mui xe hút xì gà trong lễ diễu hành.

Khi chuyển đến New York năm 23 tuổi, Lee chỉ quen một người nhưng đó lại là Truman Capote, cậu bạn từng sống cạnh nhà cô hồi nhỏ và sau này trở thành nguyên mẫu cho nhân vật Charles Baker “Dill” Harris trong “Giết con chim nhại”. Cả hai đều là những đứa trẻ “khác biệt”, như Capote nói: biết đọc sớm hơn bạn bè, và chơi đùa với ngôn ngữ như người khác chơi búp bê hay bóng đá. 

Họ cùng nhau viết truyện phiêu lưu, chuyện hoang đường, thơ vần mô phỏng từ những tác phẩm họ yêu thích, từ “Bobbsey Twins”, “Beowulf”, “Rover Boys” cho đến “Rudyard Kipling” được gõ lách cách trên chiếc máy chữ mà cha Lee tặng cho cô con gái mọt sách nhất nhà.

Capote không học đại học mà học việc ở tạp chí The New Yorker. Vài năm sau, Lee cũng tìm được công việc đầu tiên trong ngành xuất bản, tại tạp chí School Executive của American School Publishing Corporation. Sau đó cô nghỉ việc để làm công việc ít liên quan đến văn chương nhưng nghe khá “sang”, là nhân viên đặt vé cho hãng hàng không. Ngoài giờ hành chính, cuộc sống của cô lại giản dị đến mức tằn tiện: sống nhờ bánh mì bơ đậu phộng, viết truyện trên chiếc bàn tự chế từ hai thùng táo cũ và một cánh cửa nhặt ở tầng hầm tòa nhà.

Chính trên chiếc bàn tạm bợ đó, Lee dần vững tay viết hơn. Cô từng viết cho gia đình:

“Em thật sự tin rằng khả năng lớn nhất của mình là viết sáng tạo, và em tin rằng em có thể sống bằng nghề này.”

Như bao cây bút trẻ khác, Lee ban đầu khai thác chất liệu từ chính gia đình và tuổi thơ mình. Ba truyện ngắn đầu tiên trong tuyển tập mới: “The Water Tank”, “The Binoculars”“The Pinking Shears” đều viết trước khi cô bước sang tuổi 30, lấy góc nhìn của trẻ nhỏ để khám phá những quy tắc xã hội, lỗi lầm vụn vặt và rối rắm đạo đức trong “xã hội bí mật của tuổi thơ”. Những câu chuyện chỉ xoay quanh chuyện được cha mẹ khen, được bạn bè chấp nhận và nhân vật phản diện cũng rất đời thường: thầy cô, anh chị, nhóm bạn trong sân trường.

Ba truyện sau lại đưa độc giả đến New York với người kể chuyện trưởng thành hơn: “A Roomful of Kibble”, “The Viewers and the Viewed”“This Is Show Business?” - nơi Lee thử nghiệm giọng kể mới và cấu trúc truyện chặt chẽ hơn, dường như muốn “đuổi kịp” các cây bút đương thời như Salinger và Cheever.

Các nhân vật trong những truyện này được lấy trực tiếp từ đời thực của Lee: có người mang biệt danh của cô - “Dody”; người mang tên anh chị ruột – Edwin, Alice và Louise; và có cả những người bạn thân như Anne Hines, sau này là thị trưởng Monroeville. Chị cả Alice, được cả nhà gọi là “Bear”, trong truyện trở thành “Doe”, nhưng vẫn nhận ra ngay qua đoạn miêu tả:

“Cô chỉ yêu ba thứ trên đời: nghề luật, hoa trà mi, và nhà thờ Methodist.”

Tên “Jean Louise” – nhân vật gắn liền với danh tiếng Harper Lee – lần đầu xuất hiện trong truyện “The Pinking Shears”, khi “cô bé Jean Louie” lớp ba xuất hiện, thiếu mất chữ “s” trong tên. Ở truyện cuối cùng của tuyển tập, cô bé ấy đã thành “Jean Louise Finch”, dù chưa mang biệt danh “Scout”. Những người từng quen biết Harper Lee đều nhớ đến trí tuệ sắc bén của bà, và một trong những thú vị nhất khi đọc truyện cuối cùng là được thấy sự thông minh ấy bừng sáng trên trang giấy.

Lee hóm hỉnh mà sâu sắc khi viết về cảm giác vừa thân thuộc vừa ngột ngạt của việc trở lại quê hương sau khi trưởng thành. Đến khi sáng tác “The Land of Sweet Forever”, cô đã quá quen với những “cuộc trở về” như thế. Hai năm sau khi chuyển đến New York, mùa hè năm 1951, cha cô gọi điện từ bệnh viện Vaughan ở Selma báo rằng mẹ cô mắc ung thư gan và phổi. Trước khi Lee kịp sắp xếp để về, ông lại gọi lần nữa: mẹ cô, Frances, đã qua đời vì cơn đau tim chỉ một ngày sau khi được chẩn đoán.

Sáu tuần sau, Lee nhận thêm một cú điện thoại khác, lần này báo tin người anh trai yêu quý Edwin - nguyên mẫu của Jem trong “Giết con chim nhại” - đã qua đời vì phình mạch não tại căn cứ không quân ở Montgomery, để lại vợ và hai con nhỏ. Lee lại vội vã bay về quê, mang theo nỗi đau chồng chất. Khi ấy cô mới 25 tuổi, nhưng chưa bao giờ việc ghi lại tuổi thơ lại trở nên cấp bách đến thế. Phần vì, như cô kể trong truyện “The Cat’s Meow”, cha và chị cả của cô sớm bán căn nhà nơi cô sinh ra và lớn lên, chuyển sang một ngôi nhà hiện đại hơn ở phía bên kia thị trấn.

 

Cuộc đời sau những trang viết – Harper Lee và “món quà Giáng sinh” giúp tạo nên huyền thoại

 

Việc chuyển sang ngôi nhà mới không giúp hai cha con Lee thoát khỏi “bóng ma” trên phố South Alabama Avenue. Harper Lee vẫn bị ám ảnh bởi ký ức về mẹ, người anh trai và cả thế giới đã mất sau khi họ qua đời. Cô lo lắng cho cha, thường xuyên trở về Monroeville để giúp chị Alice chăm sóc ông. 

Giữa New York hoa lệ và quê nhà Alabama yên ả, Lee bắt đầu viết những truyện ngắn cố gắng hòa giải hai thế giới ấy – như thể đang hàn gắn chính tâm hồn mình, vừa trong văn chương, vừa trong cuộc sống.

Thời điểm đó, quan điểm chính trị của Lee vẫn đang hình thành. Quê hương cô là một vùng phân biệt chủng tộc nghiêm ngặt, với trường học, nhà thờ, nhà hàng tách biệt người da trắng và da đen. Khi còn ở đại học, cô từng viết về nỗi kinh hoàng của bạo lực chủng tộc và tham gia cùng nhóm sinh viên cấp tiến của tờ báo trường. Nhưng khi đặt chân đến Manhattan, cô bước vào một xã hội đa sắc tộc và cởi mở hơn bất kỳ nơi nào cô từng biết.

Suốt nhiều năm, những truyện ngắn Lee viết trong thời kỳ đầu ở New York chỉ được biết đến qua vài tiêu đề mờ nhòe trên tấm thẻ lưu trữ của hai đại lý văn học Annie Laurie Williams và Maurice Crain. Không truyện nào được xuất bản, và trong nhiều thập kỷ, giới học giả lẫn người viết tiểu sử đều thắc mắc: chúng đã đi đâu?

Giờ đây, bốn truyện trong số đó xuất hiện trong tuyển tập “The Land of Sweet Forever”; cùng với bốn truyện khác, tất cả được tìm thấy trong căn hộ cuối cùng của Lee ở New York – số 433 East 82nd Street – nơi cô chuyển đến vào năm “Giết con chim nhại” được xuất bản, và sống suốt bốn thập kỷ trước khi cơn đột quỵ buộc cô trở về Alabama vĩnh viễn.

May mắn thay, Harper Lee vốn là người “giữ của”: khi căn hộ được dọn dẹp, giữa đống thư từ, hóa đơn điện thoại, phiếu lương và séc hủy, người ta tìm thấy sổ tay và bản thảo của cô gồm tám truyện ngắn và tám bài tiểu luận. 

Các bài tiểu luận này, được xuất bản sau “Giết con chim nhại”, cho thấy Lee thực ra đã có sự nghiệp đúng như cô mong muốn, dù không như công chúng kỳ vọng. “Giết con chim nhại” trở thành kiệt tác điện ảnh đoạt nhiều giải thưởng, chưa bao giờ ngừng tái bản và được dịch ra hàng chục ngôn ngữ. 

Tuy nhiên, Lee chưa bao giờ viết phần tiếp theo mà người hâm mộ mong đợi; và khi bà xuất bản cuốn sách thứ hai ở tuổi 89, đó lại là “Go Set a Watchman” - cuốn tiểu thuyết đầu tiên bà từng viết, được gửi cho nhà xuất bản cùng năm với truyện The Binoculars.

Lee từng nói: “Tôi là người viết lại nhiều hơn là người viết.”

Bà thường viết ít nhất ba bản thảo cho mỗi tác phẩm. Sự miệt mài đó hiện rõ trong các bản thảo gốc cũng như khi so sánh truyện ngắn với tiểu thuyết sau này. “The Binoculars”, chẳng hạn, được rút gọn và biến thành đoạn đối thoại trong chương hai của “Giết con chim nhại”, khi cô bé Scout khiến cô giáo bực mình vì… biết đọc quá sớm. Tương tự, “The Land of Sweet Forever” trở thành cảnh hồi tưởng trong chương bảy của “Go Set a Watchman”, khi Scout từ New York trở về thị trấn Maycomb.

Dựa vào ghi chép của các đại lý văn học, người ta biết rằng Lee đã mất bảy năm để viết và chỉnh sửa các truyện ngắn này. Sau khi được khuyến khích thử sức với một tác phẩm dài hơn, cô dành thêm ba năm nữa để biến những truyện đó thành các chương, rồi từ chương thành tiểu thuyết - đầu tiên là “Go Set a Watchman”, sau đó mới đến “Giết con chim nhại”.

Tất cả có lẽ còn kéo dài hơn nếu không nhờ một món quà phi thường mà Lee nhận được – được bà kể lại trong bài tiểu luận nổi tiếng “Christmas to Me”

Trong số bạn thân ở New York có vợ chồng Michael và Joy Brown, những người luôn tin tưởng và cổ vũ cô. Michael Brown, một nhạc sĩ kiêm nhà soạn lời nổi tiếng, là người đã giới thiệu Lee với hai đại lý văn học của cô vào dịp Lễ Tạ ơn năm 1956. 

Hai vợ chồng Brown rất thích những truyện Lee viết và những bức thư dí dỏm, sâu sắc mà cô gửi từ Alabama - những “kiệt tác nhỏ” đầy tinh tế và nhân hậu.

Mỗi năm, Lee đều đón Giáng sinh cùng nhà Brown. Họ có truyền thống tặng nhau những món quà vừa rẻ vừa kỳ khôi nhất có thể. Năm đó, Lee tặng Michael một bức chân dung linh mục Anh quốc xa lạ trị giá 35 xu, và tặng Joy một bản in giảm giá của tác phẩm trọn bộ của một quý tộc Anh ít nổi tiếng hơn. Khi đến lượt hai người bạn tặng quà, họ chỉ vào một phong bì treo trên cây thông. Trông thì khiêm tốn, nhưng bên trong là một tờ giấy ghi:

“Bạn có một năm nghỉ việc để viết bất cứ điều gì bạn muốn. Giáng sinh vui vẻ!”

Từ tháng đó, và suốt một năm sau, họ gửi cho Lee mỗi tháng một tấm séc 100 đô la - gấp năm lần tiền thuê nhà của cô - và khẳng định họ không muốn nhận lại điều gì.

Trong nhiều thập kỷ, món quà ấy được xem là “điên rồ” vì quá hào phóng. Nhưng giờ đây, khi những truyện ngắn bị thất lạc được tìm thấy, ta mới hiểu vì sao nhà Brown lại làm vậy. Họ đã nhìn thấy những điều thiên tài nơi Lee: hình bóng người cha luật sư chưa mang tên Atticus nhưng đã dạy con mình về công lý; một thi sĩ thị trấn nhỏ cãi cọ với thợ in báo về việc có nên đăng cáo phó cho… bò; và một người con gái miền Nam đang vật lộn giữa chuẩn mực cũ và đạo đức mới đang hình thành.

Từng mẩu truyện, từng khoảnh khắc, là “thoáng thấy thiên tài” - và giờ ta biết, món quà mà vợ chồng Brown tặng Harper Lee năm ấy, thực ra chẳng hào phóng hơn món quà bà đã tặng lại cho cả thế giới.

- Theo The Guardian