26 tác phẩm kinh điển tạo nền tảng tư tưởng nhân loại 
26 tác phẩm kinh điển tạo nền tảng tư tưởng nhân loại 
Tuyển tập 26 cuốn sách kinh điển từ Omega Plus Books là tập hợp những tác phẩm đã góp phần định hình những tư tưởng lớn của loài người: từ tôn giáo, triết học, chính trị đến lịch sử và kinh tế. Mỗi cuốn sách đều mang giá trị vượt thời gian, giúp ta hiểu rõ hơn về hành trình phát triển của văn minh nhân loại.

 

Những cuốn sách về gốc rễ tôn giáo và triết học cổ xưa

 

“Kinh Thánh Cựu Ước”, “Kinh Thánh Tân Ước”, “Đạo đức kinh”, “Ngũ Luân thư”, “Hàn Phi Tử” là những trụ cột tinh thần đã dự nên nền móng cho tín ngưỡng, đạo lý và tư duy chính trị- xã hội ở phương Đông và phương Tây.

1/ Kinh Thánh Cựu Ước + Kinh Thánh Tân Ước

Kinh Thánh lâu nay đã được xem là một tác phẩm kinh điển nhất mọi thời đại với những kỉ lục mà chưa từng có tác phẩm nào vượt qua được như: cuốn sách bán chạy nhất mọi thời đại (hơn 7 tỉ ấn bản được phát hành (ước tính tới năm 2020)); được dịch ra nhiều thứ tiếng nhất (Kinh Thánh trọn bộ được dịch sang 700 ngôn ngữ, và hơn 1.500 ngôn ngữ có bản dịch Tân Ước); cuốn sách được trích dẫn nhiều nhất, có ảnh hưởng nhất và là nguồn cảm hứng cho rất nhiều tác phẩm nghệ thuật nổi tiếng trên thế giới…

Kinh Thánh có tên gốc trong tiếng Hy Lạp là Biblia, nghĩa là “sách”; trong tiếng La Tinh là Scriptura, nghĩa là “trước tác” “bài viết”, “bản thảo”; trong tiếng Anh gọi là The Bible, nghĩa là sách kinh điển. Khi chuyển sang Tiếng Việt, các dịch giả sử dụng theo danh từ Hán Việt - thường gọi các sách tôn giáo dạy đạo lý là kinh, nên chúng ta có tên gọi là Kinh Thánh trong Tiếng Việt, được sử dụng rộng rãi từ xưa đến nay, dù tên gọi này mang màu sắc tôn giáo và gây nhiều hiểu lầm cho những độc giả chưa từng tiếp cận.

Kinh Thánh gồm hai phần: từ nhiều văn thư được thu lại thành hai bộ lớn là Cựu Ước và Tân Ước trong suốt hơn 1.600 năm từ thế kỷ 12 trước CN cho tới thế kỷ 2, được viết bằng ba ngôn ngữ, chủ yếu là chữ Hebrew (hay Hipri của người Do Thái), Hi Lạp cổ và một vài phân đoạn trong Kinh Thánh được viết bằng tiếng Aram - một cổ ngữ được dùng phổ biến tại Do Thái trong thời Đức Chúa Yêsu.

Cựu Ước là Giao ước cũ của người Hebrew (nay gọi là Do Thái) với Thiên Chúa, gồm 46 cuốn chia 4 phần, chứa đựng vũ trụ quan, nhân sinh quan cổ xưa nhất của nhân loại, do nhiều người viết suốt từ năm 1.200 đến năm 100 trước CN. Còn Tân Ước là Giao ước mới của các tín đồ Ki-tô giáo với Thiên Chúa, nguyên văn từ các cổ bản Hi Lạp, ra đời một thế kỷ sau khi xuất hiện đạo Ki-tô, trình bày cuộc đời và học thuyết của Chúa Yêsu.

Kinh Thánh có thể được xem là một bách khoa toàn thư rất hữu ích trong việc nghiên cứu nhân loại cổ đại về các mặt lịch sử, chính trị, quân sự, pháp luật, luân lý đạo đức, kinh tế, khoa học kỹ thuật, y học, văn hoá... Nên có thể nói chưa đọc và hiểu Kinh Thánh thì rất khó hiểu được nền văn minh phương Tây nói riêng, cũng như thế giới nói chung.

 

2/ Đạo Đức Kinh

Đạo đức kinh là một trong những tác phẩm cổ điển quan trọng nhất trong lịch sử văn hóa nhân loại. Đạo đức kinh tương truyền do Lão Tử biên soạn dưới thời Xuân thu - Chiến quốc.

Từ lâu, tác phẩm đã không còn là một tác phẩm xa lạ với độc giả thế giới. Trong hàng ngàn năm qua, đã có rất nhiều học giả nghiên cứu, viết sách bình luận về quyển sách nhỏ này. Hiện nay đã có hơn 60 bản dịch Anh ngữ, hơn 50 bản dịch Pháp ngữ và nhiều bản dịch ra các ngôn ngữ khác.

Ở Việt Nam hiện nay cũng có đến 4, 5 bản dịch Việt ngữ. Tuy nhiên, phần lớn độc giả không đọc thẳng vào văn bản mà chỉ đọc lời bàn của các dịch giả. Có lẽ vì thế nên nhiều người hiểu sai về Đạo đức kinh. Đạo đức kinh là một thi phẩm với các câu thơ ngắn gọn, thường có vần và nhịp điệu để tạo hứng thú cho người đọc. Quyển sách bao gồm 81 chương được chia thành hai phần chính là: Đạo kinh và Đức kinh. Nội dung cuốn sách xoay quanh cách vấn đề triết học phương Đông như "Đạo", "Đức", "Vô vi" và "Phản phục"

Tác phẩm chứa đựng những kinh nghiệm của cổ nhân mà người đọc đã quen thuộc qua những câu thành ngữ, tục ngữ thường ngày. Độc giả sẽ tìm lại được phần cơ sở tư tưởng mà họ từng được học qua thơ văn, sách vở Việt Nam và Trung Hoa một cách sâu sắc nhất. Tư tưởng Đạo đức kinh thật đơn giản nhưng thâm sâu vi tế. Vì thế, người xưa thường dùng cụm từ “ngoại vương nội thánh” để kết luận về nội dung của Đạo đức kinh: Đó là cái học của vương hầu, quân tử khi ra ngoài và cũng là cái học của bậc thánh nhân khi lui về.

Phiên bản Đạo đức kinh này được trình bày bằng 3 thứ tiếng : Hán, Việt, Anh; dịch dựa trên văn bản cổ nhất hiện nay được khai quật vào cuối năm 1973, trong ngôi cổ mộ của viên thái thú Trường Sa thời nhà Hán được chôn vào ngày năm 168 TCN ở thôn Mã Vương Đôi, Hà Nam, Trung Quốc.

 

3/ Ngũ Luân Thư

Miyamoto Musashi (1584 – 1645) được xưng tụng là Thánh Kiếm của Nhật Bản thời tiền Mạc Phủ Tokugawa, sáng lập ra môn phái Niten Ichi Ryu (Nhị thiên Nhất lưu). Sau khi sống sót qua trận tử địa Sekigahara giữa Đông Quân và Tây Quân, Miyamoto Musashi đã lang bạt khắp nơi, tự rèn luyện mình để trở thành một kiếm sĩ nổi danh và thành công nhất Nhật Bản với chiến tích chưa từng thất bại trước bất cứ đối thủ nào. Trong những năm tháng cuối đời, Musashi đã viết binh pháp thư Ngũ Luân Thư, nhằm đúc kết những quan sát, kinh nghiệm trong quá trình chiến đấu của mình và bàn luận về cái Đạo của người kiếm sĩ.

Ngũ Luân Thư bao gồm “Địa quyển”,” Hỏa quyển”, “Thủy Quyển”, “Phong quyển” và “Không quyển”, chủ yếu bàn về võ nghệ, kiếm pháp, cái Đạo của người học kiếm và là cẩm nang dành cho người muốn học binh pháp…nhưng ngày nay nó lại được nghiền ngẫm khắp nơi, từ giảng đường Harvard cho đến các doanh nhân và các chiến lược gia. Thời thời đại ngày nay, không thể phủ nhận được tầm quan trọng của Ngũ Luân Thư khi nó là kim chỉ nam cho người đọc, giúp họ chiến thắng mục tiêu và đạt được thành công trong sự nghiệp nói chung, và là lời đáp trả của người Nhật cho MBA của Harvard nói riêng. Tạp chí Time đã ca ngợi quyển sách này rất ngắn gọn: “Ở Phố Wall, khi Musashi cất tiếng, tất cả phải lắng nghe”.

Tóm lại, Ngũ Luân Thư có thể là cẩm nang binh pháp dành cho mọi người, mỗi lần đọc là lại nghiền ngẫm ra những điều mới mẻ và tìm ra chân Đạo trên con đường của mình, như Miyamoto Musashi đã viết “ Không có nghề cao quý, chỉ có con người cao quý. Không có kiếm pháp vô địch, chỉ có con người vô địch”.

 

4/ Hàn Phi Tử

Tác phẩm “Hàn Phi Tử” của Hàn Phi là “cuốn sách giáo khoa dạy làm vua” độc đáo, mang đậm dấu ấn của chế độ phong kiến phương Đông.

Tiểu sử của ông đã được Tư Mã Thiên kể lại chính xác trong bộ Sử ký. Phi là một công tử nước Hàn, tức là người con (tử) của vua (công) nước Hàn nhưng không phải là người sẽ thừa kế ngôi vua. Hoàn cảnh ấy giúp Phi ngay từ bé đã nhìn thấy rõ các quan hệ giữa vua tôi và cách trị nước. Sau đó Phi đến học với Tuân Khanh, tức Tuân Tử, nhà học giả lớn nhất thời bấy giờ. Phi tiếp thu Nho giáo, do đó rất thông thạo về lịch sử, văn học. Phi thừa kế của thầy quan niệm bản tính con người là ác, căm ghét mê tín, coi trọng giáo dục đề cao các tiên vương các đời Hạ, Thương, Chu mà xem nhẹ Nghiêu, Thuấn là mẫu mực của Khổng Tử.

Cùng học với Phi có Lý Tư sau này sẽ làm Thừa tướng nước Tần. Lý Tư thừa nhận Phi giỏi hơn mình. Chủ trương của Tuân Tử là dùng lễ để trị nước, khác chủ trương dùng nhân để trị nước của Khổng Tử. Lễ và pháp luật là rất gần nhau cho nên cả Hàn Phi lẫn Lý Tư đều chuyển sang pháp trị. Về nước, Phi thấy nước Hàn yếu đuối, mấy lần dâng thư cho vua Hàn nhưng nhà vua không nghe. Phi nghĩ cách xây dựng một học thuyết để lại cho đời sau về việc trị nước. Phi tiếp thu lý thuyết pháp gia đã có từ trước. Nhưng lý thuyết này qua Quản Trọng, Thương Ưởng, Thân Bất Hại vân vân chỉ mới là những phép tắc. Nó còn thiếu một linh hồn để trở thành sinh động, uyển chuyển, áp dụng cho vô vàn trường hợp khác nhau.

Phi thấy nó ở đạo Lão và đưa đạo Lão vào hoán cải cái học thuyết vốn dĩ khô khan thành một học thuyết đầy sức sống. Nếu Quản Trọng, Thương Ưởng chỉ mới thấy cái quan trọng của phép tắc, Thân Bất Hại thấy thêm được cái thế, thì với Hàn Phi, trị nước trở thành một cái thuật để người cai trị sử dụng mà ứng phó với mọi trường hợp. Do đó, Phi là người lớn nhất của trường phái Pháp gia và bộ Hàn Phi Tử trở thành tác phẩm quyết định của toàn bộ học thuyết này.

Đối với văn hóa thế giới, Hàn Phi Tử là một tác phẩm hết sức độc đáo. Về mặt chính trị, nó là công trình quan trọng nhất của chính trị học Trung Hoa và một trong những tác phẩm đầu tiên của chính trị học thế giới. Về tư tưởng, nó xác lập trường phái Pháp gia, một trong bốn trường phái lớn nhất của tư tưởng Trung Quốc (Nho, Mặc, Lão, Pháp). Về văn học, nó là một công trình cực kỳ hấp dẫn. Trên cơ sở một cách trình bày khách quan, ta thấy toàn bộ xã hội cổ Trung Quốc sống lại với mọi quan hệ, vô số sự kiện. Và lạ hơn nữa, đọc cái công trình viết cách đây 2.300 năm này ai cũng giật mình về tính thời sự của nó. Ta có cảm tưởng rằng tác giả là người hiện nay, nói bằng ngôn ngữ và cách lý luận hôm nay về các quan hệ giữa người với người ngày hôm nay, không chỉ ở Trung Hoa mà ở cả thế giới, trong đó có Việt Nam. Ta bắt buộc phải thừa nhận con người viết ra nó thực sự là một thiên tài toàn diện. Một đầu óc lỗi lạc nhất của Trung Hoa và của loài người, con người Trung Quốc đầu tiên dám nhìn thẳng vào sự thật với tất cả cái tàn nhẫn của nó để tìm cách đưa đến một cuộc sống yên ổn cho người dân thường trong khuôn khổ của thời đại quân chủ.

 

Những cuốn sách về những cuộc đối thoại triết học

 

“Cộng Hòa”, “Chính trị luận”, “Bàn về khế ước xã hội”, “Ngày cuối trong đời Socrates” là những tác phẩm ghi lại những câu hỏi về công lý, quyền lực, tự do và số phận con người.

1/ Cộng Hòa

Cùng với Socrates, Plato được xem là một trong những triết gia có ảnh hưởng sâu rộng nhất trong lịch sử triết học phương Tây. Ralph Waldo Emerson – nhà tiểu luận, thi sĩ và triết gia Mỹ – đã từng khẳng định: “Plato chính là triết học, triết học chính là Plato.”

Không vợ, không con, nhưng ông để lại một “dòng giống tinh thần” vô cùng hùng mạnh: mọi nhà tư tưởng lớn của các dân tộc văn minh đều ít nhiều là “hậu duệ” của Plato. Trong số rất ít tác phẩm triết học kinh điển được dịch sang tiếng Việt, Cộng Hòa (The Republic) chính là kiệt tác thể hiện trọn vẹn tư tưởng và tài năng của ông.

Cộng Hòa không chỉ là một cuốn sách triết học, mà còn là nền tảng cho nhiều lĩnh vực:

  • Thần học và đạo đức học – tìm hiểu bản chất của thiện và ác, công bằng và bất công.
  • Chính trị học – đề xuất mô hình nhà nước lý tưởng và cách tổ chức xã hội công bằng.
  • Giáo dục học – luận bàn về tri thức, sự giác ngộ và vai trò của giáo dục.
  • Siêu hình học & tâm lý học – khai mở những vấn đề về bản chất thực tại và tâm thức.
  • Lý thuyết nghệ thuật – đặt ra nền tảng cho triết lý thẩm mỹ phương Tây.

Điều kỳ diệu là hầu hết những vấn đề của triết học hiện đại – từ Nietzsche, Rousseau, Bergson cho tới Freud – đều đã được Plato nêu ra và gợi mở trong Cộng Hòa.

 

2/ Chính Trị Luận

 

Tác phẩm nổi tiếng viết về các khái niệm mà từ đó định hình các quốc gia và chính phủ. Mặc dù, Aristotle cổ vũ mạnh mẽ cho chế độ nô lệ lạc hậu, quan điểm của ông về Hiến pháp và cách điều hành chính phủ lại rất kinh điển. Dù chỉ thảo luận về nhà nước và các định chế thời Hy Lạp cổ nhưng tác phẩm này của ông đã đặt nền tảng cho khoa học chính trị hiện đại.

Tác phẩm này được xem là căn bản cho Chính trị học Tây phương. Chính trị luận nghiên cứu các vấn đề cơ bản về nhà nước, chính quyền, chính trị, tự do, công bằng, tài sản, quyền, luật và việc thực thi luật pháp của các cơ quan thẩm quyền.

Aristotle là biểu tượng của trí tuệ tư duy triết học. Mặc dù nội dung rất sâu sắc nhưng cách trình bày của ông lại rất dễ hiểu. Ông viết những suy nghĩ của mình một cách rõ ràng với độ chính xác siêu phàm. Học thuyết của ông có ảnh hưởng lớn đến những lĩnh vực hiện đại như : khoa học, chủ nghĩa duy thực và logic học

Theo Aristotle, là một người tốt không thôi chưa đủ. Nếu người dân tốt mà không tích cực tham gia vào đời sống chính trị của chế độ thì chế độ đó có cơ nguy trở thành thoái hóa và trở thành một chế độ xấu.

 

3/ Bàn Về Khế Ước Xã Hội

 

Bàn về Khế ước xã hội là tên gọi vắn tắt của bản luận văn lớn mà J. J. Rousseau đặt dưới một nhan đề khá dài: Bàn về khế ước xã hội hay là các nguyên tắc của quyền chính trị (Du Contrat social – ou principes du droit politique).

Về lai lịch cuốn sách, tác giả viết: “Luận văn nhỏ này trích từ một công trình nghiên cứu rộng lớn mà trước kia tôi đã viết, nhưng vì chưa lượng được sức mình nên phải bỏ đi từ lâu”.

Về mục đích cuốn sách, tác giả viết: “Tôi muốn tìm xem trong trật tự dân sự có hay không một số quy tắc cai trị chính đáng, vững chắc, biết đối đãi với con người như con người. Và có hay không luật pháp đúng với những ý nghĩa chân thực của nó”. Với luận văn này, J. J. Rousseau muốn “gắn liền cái mà luật pháp cho phép làm với cái mà lợi ích thúc đẩy phải làm, khiến cho công lý và lợi ích không tách rời nhau”.

Toàn bộ luận văn trên dưới sáu vạn chữ được chia làm bốn quyển:

  • Quyển thứ nhất gồm 9 chương, mở ra những ý niệm chung về sự hình thành một xã hội người từ trạng thái tự nhiên chuyển sang trạng thái dân sự và những ý niệm chung về việc thành lập Công ước xã hội.
  • Quyển thứ hai gồm 12 chương, chủ yếu bàn về vấn đề lập pháp.
  • Quyển thứ ba gồm 18 chương, bàn chủ yếu về vấn đề cơ quan hành pháp.
  • Quyển thứ tư gồm 9 chương, bàn tiếp nhiều vấn đề, trong đó nổi lên vấn đề cơ quan tư pháp.

 

4/ Ngày Cuối Trong Đời Socrates

Ngày cuối trong đời Socrates là một loạt bốn cuộc đối thoại, ghi lại những thời khắc cuối đời của Socrates và những lời biện giải đanh thép của ông khi bị Bồi thẩm đoàn của Hội đồng Thành quốc kết tột tử hình vì bị cho rằng ông đã hủ hóa thanh niên, coi thường thần linh mà thành quốc tin tưởng.

Là tấm gương trong sạch, coi trọng danh dự và xem thường cái chết, Socrates đã từ chối sự giúp đỡ của bạn bè dù biết mình không thể sống được bao lâu, dù cho cái chết của mình là âm mưu đê hèn từ những kẻ tham quyền lực và bại hoại đạo đức.

Ông tuyên bố rằng “Tránh cái chết không khó, tránh đê tiện khó hơn nhiều. Vì đê tiện chạy nhanh hơn cái chết”.

 

Những cuốn sách về luật pháp và quyền lực

 

“Bàn về tinh thần pháp luật”, “Quân vương”, “Luận về chiến tranh”, “Tâm lý học đám đông”, “Những quy luật tâm lý về sự tiến hóa của dân tộc”, “Giới tinh hoa quyền lực” giống như những tấm gương phản chiếu. Ở đó, luật pháp hiện lên như trật tự, chiến tranh như công cụ, đám đông như lực lượng khó lường, và quyền lực như một thứ vừa cần thiết vừa nguy hiểm.

1/ Bàn Về Tinh Thần Pháp Luật

Bàn về tinh thần pháp luật là tuyệt tác triết học của Montesquieu, là một trong những tác phẩm vĩ đại trong lịch sử triết học chính trị và trong lịch sử luật học.  Mục đích cuốn sách, như chính tác giả đã nêu, là: Trình bày những nguyên nhân quyết định nền pháp lý cho mỗi quốc gia; trình bày sự phù hợp cần thiết giữa luật lệ và chế độ cai trị của một nước; trình bày những quan hệ giữa các luật lệ với nhau. Ông đã phải mất gần 20 năm cho tác phẩm này.

Bàn về tinh thần pháp luật của Montesquieu cùng với Bàn về Khế ước xã hội của Rousseau được coi là bộ đôi tác phẩm “xây dựng lý thuyết về xã hội công dân và nhà nước pháp quyền, dẫn tới cuộc Đại cách mạng Pháp 1789”. Những giá trị kinh điển của hai tác phẩm cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị và được coi như những “tinh hoa tư tưởng của nhân loại”.

Montesquieu (1689-1755), nhà tư tưởng chính trị, nhà triết học Khai sáng người Pháp. Ông được biết đến với các tác phẩm hướng tới tinh thần đấu tranh, xây dựng một xã hội không còn áp bức, bất công; một xã hội đem lại tự do, hòa bình cho toàn nhân loại. Tên tuổi Montesquieu đặc biệt gắn liền với Bàn về tinh thần pháp luật, một ngọn đuốc trong khoa học xã hội, một lần được thắp lên thì sẽ không bao giờ tắt.

 

2/ Quân Vương

Quân vương là tuyệt tác nổi tiếng của Niccolò Machiavelli – một trong những nhà tư tưởng chính trị quan trọng nhất châu Âu thời kỳ đầu hiện đại, người đầu tiên nghiên cứu chính trị dựa trên lý luận thực tiễn hơn là lý thuyết giáo điều. Bất kể sau bao nhiêu thế kỷ, triết học chính trị của Niccolò Machiavelli chưa bao giờ mất đi tính thời sự, vì nó đề cập vấn đề được quan tâm nhất nhưng không phải ai cũng có thể giải quyết một cách triệt để.

“Quân vương” còn là văn bản được nhiều nhà chính trị tư tưởng phương Tây sử dụng. Quân vương chắt lọc những nhìn nhận của ông về bản tính con người, nghệ thuật lãnh đạo, cũng như chính sách ngoại giao trên cơ sở những sự việc diễn ra như là bức tranh chính xác về tính chất thực tế của quyền lực

Trong phần lớn nội dung tác phẩm, Niccolò Machiavelli dựa vào những sự kiện lịch sử để khái quát từng cách thức vận dụng các nguồn lực, những thuận lợi và khó khăn khác nhau phải đương đầu và những phẩm chất đạo đức mà một con người cần hun đúc để đạt mục tiêu vang dội. Khi mới ra đời, Quân vương gây tranh luận dữ dội. Bất chấp những ý kiến trái chiều, tác phẩm vẫn được đọc, tham chiếu và ứng dụng trong gần 500 năm qua.

 

3/ Luận Về Chiến Tranh

Luận Về Chiến Tranh (Dell’arte della guerra) là tác phẩm quân sự nổi bật và hệ thống nhất của Niccolò Machiavelli, nhà triết học chính trị lỗi lạc thời Phục hưng Ý. Được viết trong giai đoạn 1519–1520 và xuất bản năm 1521, đây cũng là tác phẩm duy nhất của Machiavelli được in khi ông còn sống.

Bằng hình thức đối thoại triết học đặc trưng, Machiavelli đã phác thảo một cách toàn diện tư tưởng quân sự của mình, khẳng định vai trò không thể tách rời giữa chính trị và chiến tranh – một thông điệp vẫn còn nguyên tính thời sự cho đến ngày nay.

Tác phẩm được trình bày dưới dạng đối thoại giữa một nhóm quý tộc và trí thức tại khu vườn Orti Oricellari – trung tâm thảo luận học thuật của Florence vào cuối thế kỷ XV. Nhân vật trung tâm là Fabrizio Colonna, một condottiere (lính đánh thuê) dày dạn kinh nghiệm, được xem như phát ngôn viên của chính Machiavelli.

Thông qua Fabrizio, Machiavelli thể hiện những quan điểm sâu sắc về:

  • Tuyển mộ, huấn luyện và tổ chức quân đội
  • Chiến lược quân sự và nghệ thuật chiến tranh
  • Chiến tranh như một công cụ chính trị: là phương tiện để bảo vệ hoặc mở rộng quyền lực.
  • Phê phán giới nhân văn đương thời: Chỉ tập trung vào văn học, nghệ thuật mà bỏ qua sức mạnh quân sự – yếu tố cốt lõi để tạo nên một quốc gia hùng mạnh.
  • Học hỏi từ cổ nhân không chỉ ở nghệ thuật và đạo đức, mà còn trong chiến tranh.

Mặc dù được bắt đầu bằng giọng kể ở ngôi thứ nhất, Machiavelli nhanh chóng rút khỏi văn bản, nhường lời cho Fabrizio, biến các cuộc đối thoại trở thành một diễn ngôn quân sự liền mạch và thuyết phục.

 

4/ Tâm Lý Học Đám Đông

Cuốn sách Tâm Lý Học Đám Đông của tác giả Gustave Le Bon là một trong những tác phẩm khoa học đồ sộ và quan trọng nhất trên nhiều lĩnh vực của ông. Cuốn sách xoay quanh chủ đề về tâm lý của đám đông và cách mà họ suy nghĩ và hành động theo cách vô thức và phi lý trí. Tác giả đã chứng minh rằng đám đông thường xuyên bị tác động vô thức và họ hành động như những người nguyên thuỷ, không có khả năng suy nghĩ và suy luận. Điều này đặt tư tưởng của đám đông đối nghịch với tư duy tự do và lý trí độc lập của cá nhân. 

Cuốn sách sẽ giúp bạn hiểu được cách mà hành vi của một cá nhân có tác động đến đám đông và cách mà họ cần một thủ lĩnh, một người cầm đầu để dẫn dắt họ. Cuốn sách này được coi là một trong những tác phẩm kinh điển của thế giới và được tái bản rất nhiều lần từ khi xuất bản lần đầu tại Việt Nam. Nó là một món quà vô giá của một trí tuệ hàng đầu châu Âu thuở ấy và hiện nay vẫn luôn được quan tâm nghiên cứu.

 

5/ Những Quy Luật Tâm Lý Về Sự Tiến Hóa Của Các Dân Tộc

Vốn kiến thức trong ngành Y và những năm tháng rong ruổi khắp châu Âu, châu Á và Bắc Phi đã giúp Gustave Le Bon theo đuổi ý tưởng về sự bình đẳng giữa các cá nhân và dân tộc. Ông cho rằng "Con người dễ thuyết phục bản thân rằng bất bình đẳng chỉ đơn thuần là kết quả của sự khác biệt giáo dục, rằng con người sinh ra đều tốt và thông minh, rằng trách nhiệm duy nhất cho những lời nói dối xuyên tạc chính là thể chế mà họ đang sống". Le Bon có có thể sẽ vấp phải sự phản đối mạnh mẽ khi quyển sách này chỉ ra những sai lầm của lối tư duy đó bằng cách đánh giá, xem xét các nền văn minh, nghệ thuật, thể chế và tín ngưỡng. Ông cũng thừa nhận các tổ chức thể chế có quyền lực kiểm soát vận mệnh của con người, nhưng với ông, tầm quan trọng của nó rất ít đối với sự phát triển của một nền văn minh. Theo ông, "Một trong những sai lầm to lớn của thời hiện đại là tin rằng tâm hồn con người chỉ tìm được hạnh phúc trong những sự vật bên ngoài. Hạnh phúc là ở trong chúng ta, do chính chúng ta tạo ra, và hầu như chẳng khi nào ở bên ngoài chúng ta."…

Chắc chắn nhiều người đọc Le Bon sẽ bất bình với quan điểm và tư tưởng, đánh giá của ông về các dân tộc, về đám đông (mù quáng, lầm lạc, a dua, quá khích, thụ động) và chính ông cũng bị chỉ trích, tranh cãi từ khi ông công bố các quan điểm này vào cuối thế kỷ 19. Ngay những trang đầu tiên của Tâm lý dân tộc, ông đã chỉ trích/phản đối quan điểm về bình đẳng. Le Bon chỉ trích tư tưởng bình đẳng ngay trong những dòng đầu tiên ông viết, thậm chí nói sự bình đẳng cản trở và kìm hãm sự tiến hóa của con người. Cuốn sách Những quy luật tâm lý về sự tiến hóa của các dân tộc, hay đúng hơn có thể gọi tắt là Tâm lý học các dân tộc, hẳn là cuốn sách gây nhiều chỉ trích nhất, gây nhiều chống đối và bất bình nhất trong mọi cuốn sách của Le Bon, và đó là một trong những lý do mãi đến hôm nay, sách mới ra đời… Không chỉ các nhà khoa học xã hội, nhà tâm lý nên đọc cuốn sách này, mà rõ ràng là các quan chức, các chính trị gia, và cả các bạn đang bán hàng, PR/truyền thô đều nên đọc và sẽ tìm đc nhiều gợi ý, lời khuyên khi làm việc với đám đông, và hiểu về sự tiến hóa của các dân tộc, và qua đó hiểu về sự tiến hóa của các tổ chức, các nhóm người…

 

6/ Giới Tinh Hoa Quyền Lực

Xuất bản lần đầu tiên năm 1956, Giới tinh hoa quyền lực là tác phẩm kinh điển về khoa học xã hội và phê bình xã hội của nhà xã hội học uy tín C. Wright Mills. Qua những phân tích toàn diện và phê bình sắc sảo, tác phẩm chỉ ra rõ cấu trúc quyền lực tại Mỹ là đi theo mô hình ba gọng kìm ăn khớp chặt chẽ với nhau, bao gồm: giới quân sự, giới doanh nghiệp và giới chính trị.

John H. Summers, của tờ The New York Times đã nhận xét: “Khi lần đầu ra mắt độc giả cách đây 50 năm, Giới tinh hoa quyền lực như một quả bom nổ tung giữa nền văn hóa vốn đã không còn lành lặn bởi nỗi lo âu hiện sinh và sự sợ hãi chính trị. […] Cuốn sách có thể nói là một cuộc luận chiến gay gắt chống lại “chủ nghĩa đa nguyên lãng mạn” vốn gắn chặt trong lý thuyết phổ biến của nền chính trị Mỹ.”

Trong lần tái bản năm 2000, Alan Wolfe đã cập nhật và minh họa thêm những thay đổi diễn ra từ năm 1956 ở phần Lời bạt. Đồng thời, Wolfe cũng khám phá các dự báo mà trước đây chưa nói tới, luận bàn về những thay đổi cơ bản trong chủ nghĩa tư bản Mỹ, từ sự cạnh tranh toàn cầu căng thẳng tới những thay đổi công nghệ nhanh chóng và thị hiếu thường thay đổi của người tiêu dùng.

Không đơn thuần mô tả chính xác thực tại nước Mỹ vào thời điểm cuốn sách ra mắt, Giới tinh hoa quyền lực còn phân tích tính dân chủ của xã hội Mỹ trên thực tế trong tương quan với lý thuyết – một vấn đề đến nay vẫn nguyên tầm quan trọng và gợi nhiều suy tư xa hơn về tương lai cho các thế hệ độc giả.

Những ai muốn tìm hiểu về cấu trúc quyền lực tại Mỹ thế kỷ XX – thời điểm cuốn sách ra đời, cũng như liên hệ tới hiện tại thì nên tìm đọc tác phẩm này.

 

Nhưng cuốn sách về các trang sử và ghi chép về chiến tranh

 

“Những cuộc chinh phạt của Alexander đại đế”, “Sử ký”, “12 hoàng đế La Mã”, “Lịch sử chiến tranh Peloponnese”, “Sự hưng thịnh và suy tàn của Athens”, “Lịch sử” là ký ức về những đế chế đã từng bước ra ánh sáng nhưng rồi cũng lụi tàn. Mỗi trang sách kể lại cho chúng ta nghe về những trận chiến, nhưng đồng thời cũng chất vấn cái giá của tham vọng và sự mong manh của quyền lực.

1/ Những Cuộc Chinh Phạt Của Alexander Đại Đế

Những cuộc chinh phạt của Alexander đại đế là một loạt các trận đánh của vua Alexanderos Đại đế với đế quốc Ba Tư sau đó mở rộng ra các nước nhỏ hơn như Tiểu Á, Syria, Phoenicia, Judea, Gaza, Ai Cập, Đại Hạ và Lưỡng Hà... Dưới thời của ông, biên giới đất nước được mở rộng ra đến tận vùng Punjab của Ấn Độ. Cho tới khi mất ông đã chinh phục hầu hết thế giới theo quan niệm của người Hy Lạp cổ đại.

Cuốn sách này thực sự là một tuyệt tác của Arrian, một sự bảo đảm vĩnh viễn cho danh tiếng của ông. Arrian đã nói rõ về tầm quan trọng của cuốn sách này đối với ông:

“Tôi không cần tuyên bố danh tính của mình – mặc dù nó chưa từng được ai biết tới; tôi không cần ghi rõ quê hương tôi và gia đình tôi, hoặc bất kỳ chức vụ hành chính nào mà tôi đã từng nắm giữ. Tôi chỉ muốn nói điều này: rằng cuốn sách này, từ khi tôi còn trẻ, đã quý giá hơn quê hương, dòng họ và sự thăng tiến – quả thực, đối với tôi, nó chính là tất cả những điều đó.

… Nhưng là một con người, nếu ai đó coi thường Alexander, trước hết anh ta nên tự soi chiếu mình với ngài: bản thân anh ta một kẻ tầm thường, ít tiếng tăm còn Alexander là một Hoàng đế vĩ đại với những thành công mà không ngòi bút nào tả xiết, người cai trị hai lục địa, người mà danh tiếng đã được cả thế gian biết đến. Làm sao có ai đó lăng mạ ngài, khi đó hiểu rằng, sự khinh thị và mục đích tầm thường của anh ta chỉ chứng minh cho sự bất lực của bản thân mà thôi.”

 

2/ Sử Ký

Sử Ký là công trình sử học lớn nhất của Trung Quốc và là một trong những quyển sử nổi tiếng nhất của thế giới. Là một tác phẩm đồ sộ, có tất cả 52 vạn chữ, 130 thiên, gồm năm phần: Bản kỷ, biểu, thư, thế gia, liệt truyện. Là lịch sử của toàn bộ dân tộc Trung Hoa kéo dài trên ba ngàn năm từ Hoàng Đế đến Vũ Đế (thời Tây Hán).

Sử Ký là cả một thế giới. Nó làm thỏa mãn tất cả mọi người. Người nghiên cứu sử tìm thấy ở đấy một kho tài liệu vô giá, chính xác, với giá trị tổng hợp rất cao. Nhà nghiên cứu tư tưởng tìm thấy qua Sử ký “một trong những nhà tư tưởng vĩ đại nhất của thời cổ đại”. Người bình thường tìm thấy vô số những hình tượng điển hình, những câu chuyện hấp dẫn, những con người đầy sức sống mãnh liệt. Họ thấy quá khứ sống lại và không phải chỉ có thế. Người nghiên cứu văn học còn tìm thấy ở đấy một tác phẩm văn học, mãi mãi tươi trẻ như sự sống, họ thấy ở đấy một tâm hồn, một tâm sự đau xót đầy sức mạnh của thơ trữ tình, “một tập Ly tao không vần” như lời đánh giá của Lỗ Tấn.

Sử Ký là một tác phẩm khó nhưng rất hay. Nó làm cho người đọc say mê và giáo dục họ rất nhiều. Nhưng vì nội dung phong phú, cách diễn đạt kín đáo nên phải đọc đi đọc lại nhiều lần mới thấy hết cái hay của nó. Dịch giả Phan Ngọc cố gắng dịch những chương tiêu biểu, chương nào dịch thì dịch trọn vẹn, chỉ lược bớt những đoạn ít quan trọng đối với văn học. Vì cách hành văn theo lối Xuân Thu rất xa lạ đối với chúng ta, nên dịch giả cố gắng chú thích, phân đoạn, tóm tắt để làm sao cho người đọc làm quen với tác phẩm một cách dễ dàng nhất.

 

3/ 12 Hoàng Đế La Mã

 

 

Khi chúng ta dừng lại để ngắm những bức tượng bán thân cổ của 12 vị hoàng đế La Mã trong bảo tàng hoặc phòng triển lãm, có lẽ chúng ta đang cố gắng kiếm tìm những đặc trưng tính cách hiện trên gương mặt họ – những người mà dù tốt đẹp hay xấu xa, thì vào thời của họ, đã nắm trong tay định mệnh của phần lớn nhân loại.

Cuốn sách 12 hoàng đế La Mã của Caius Suetonius Tranquillus đủ làm thỏa mãn sự hiếu kỳ tự nhiên này. Trong những trang viết, chúng ta sẽ thấy một loạt những bức chân dung cá nhân – về tư cách và sở thích của các vị hoàng đế được phác họa một cách sinh động gần gũi, hoàn toàn chân thực và tuyệt đối không thiên vị.

Caius Suetonius Tranquillus là sử gia La Mã sống từ thời hoàng đế Vespian đến thời hoàng đế Hadrian, xuất thân từ một gia đình thuộc tầng lớp kỵ sĩ. Tác phẩm nổi tiếng của ông chính là cuốn 12 hoàng đế La Mã kể về cuộc đời của Julius Caesar và 11 vị hoàng đế đầu tiên của La Mã này.

Với vai trò là thư kí riêng của hoàng đế La Mã Hadrian, Suetonius đã tiếp cận được với những tư liệu hoàng gia và sử dụng chúng (cùng với những ghi chép từ việc tận mắt chứng kiến) để tạo nên một trong những tác phẩm tiểu sử sinh động nhất trong lịch sử. 12 hoàng đế La Mã ghi chép lại sự nghiệp và đời tư của những con người nắm quyền lực tuyệt đối ở Rome, từ sự thành lập đế chế dưới thời Julius Caesar và Augustus cho tới sự suy tàn và nội chiến dưới thời Nero, và sự khôi phục của La Mã trong kỉ nguyên của các hoàng đế sau thời Nero.

Kết hợp giữa sự thú vị hài hước và giàu thông tin, cuốn sách 12 hoàng đế La Mã được yêu thích đến độ, ngay sau khi phát minh ra việc in ấn vào năm 1500, có không ít hơn 18 ấn bản của cuốn sách đã được xuất bản, và từ đó đến nay, có thêm gần 100 ấn bản khác. Các nhà phê bình xuất sắc đã dành tâm huyết cho việc hiệu đính và chú giải cuốn sách, đồng thời tác phẩm này cũng đã được dịch sang hầu hết các ngôn ngữ châu Âu. Trong số những bản dịch tiếng Anh, thì bản của Tiến sĩ Alexander Thomson, xuất bản năm 1796, là cơ sở cho ấn bản này. Trong Lời nói đầu, Tiến sĩ Alexander Thomson cho chúng ta biết rằng bản dịch tác phẩm của Suetonius, đối với ông, chỉ là mục đích thứ yếu. Mục đích chính yếu của ông là thực hiện một đánh giá chính xác về nền văn học La Mã và làm sáng tỏ tình trạng chính quyền, cùng các phong tục tập quán ở thời đó; với mục đích này thì tác phẩm của Suetonius dường như là một phương tiện thích hợp.

 

4/ Lịch Sử Chiến Tranh Peleponnese

 

 

Hy Lạp là cái nôi của nền văn minh phương Tây và là nơi biết bao cuộc chiến tranh đã đi vào huyền thoại. Thần thoại Hy Lạp cũng như Sử thi Iliad và Odyssey của Homer đã trở thành kiến thức chung của nhân loại từ lâu, nhưng có lẽ nhiều người Việt Nam chúng ta chưa biết đến cuộc Chiến tranh Peloponnese, cuộc chiến tranh được coi là lớn nhất tính từ thời Hy Lạp sơ khai cho đến thế kỷ V trước CN, thậm chí còn lớn hơn cả cuộc Chiến tranh thành Troy. Đây là cuộc nội chiến kéo dài hơn một phần tư thế kỷ giữa hai thế lực hùng mạnh nhất Hy Lạp là Athens và Sparta cùng các đồng minh của mỗi bên, cuộc chiến tranh mà Thucydides đã chép vào sử sách.

Cuốn Lịch sử Chiến tranh Peloponnese của Thucydides được đánh giá rất cao về tính chân xác của các sự kiện và tính triết học, các sử gia Hy Lạp thế hệ sau ông như Ctesias, Diodorus, Strabo, Polybius và Plutarch coi tác phẩm của ông là khuôn mẫu của lịch sử đích thực. Thucydides nhìn lịch sử dưới góc độ lịch sử chính trị, những phân tích của ông về các sự kiện chính trị không chịu ảnh hưởng của các suy xét về mặt đạo đức truyền thống. 

Tác phẩm của ông là tác phẩm đầu tiên ghi lại những phân tích về mặt chính trị và đạo đức trong các sách lược chiến tranh của một dân tộc. Ông được gọi là cha đẻ của ‘lịch sử khoa học’ và đồng thời là cha đẻ của ‘chủ nghĩa hiện thực chính trị’. Trên thực tế, di sản mà Thucydides để lại đã vượt gần 2500 năm để đến với chúng ta. 

Cuốn sử ký vĩ đại của ông vẫn đang được nghiên cứu ở cả các trường đại học và các trường quân sự tiên tiến trên thế giới. Thucydides là người đã góp phần biến lịch sử Hy Lạp thành một phần không thể thiếu được của lịch sử thế giới.  

 

5/ Sự Hưng Thịnh Và Suy Tàn Của Athens

Cuốn sách Sự hưng thịnh và suy tàn của Athens được tổ chức theo trình tự biên niên lịch sử hình thành và sụp đổ của Athens; bắt đầu từ thời đại huyền thoại của Theseus - người sáng lập thành Athens, đến Solon - người cải cách hệ thống lập pháp, Themistocles - thống soái hải quân xuất chúng nhưng độc đoán, Aristides - “người công minh”, Cimon - người lập đế chế hải quân Athens, Pericles - người chịu trách nhiệm cho những công trình trên thành phòng thủ nổi tiếng nhất thế giới của Athens (Acropolis), Nicias - người được nhớ đến với việc đúc những đồng drachm bằng bạc, Alcibiades - nhà chiến lược và thống lĩnh xuất chúng nhưng tàn nhẫn gây nên những bất hòa chính trị là nguyên nhân khiến Athens bị đại bại trước Sparta trong Chiến tranh Peloponnese, và kết thúc bằng việc Athens đại bại và rơi vào tay Lysander, vị tướng của Sparta.

 

6/ Lịch sử (Historiai) - Lịch sử được kể từ 2500 năm trước

Historiai được coi là công trình nền tảng của lịch sử trong văn học phương Tây. Được biên soạn vào năm 440 TCN bằng phương ngữ Ionia thuộc Cổ Hy Lạp ngữ, Historiai đóng vai trò cứ liệu của truyền thống cổ đại, chính trị, địa lí, và xung đột giữa các nền văn hóa hiện diện lúc bấy giờ tại Tây Á, Bắc Phi và Hy Lạp. Dù không hoàn toàn khách quan, nó vẫn là một trong những nguồn tư liệu quan trọng nhất của Tây phương về những sự kiện đương thời.

Người đọc sẽ thấy trong tác phẩm cách kể chuyện độc đáo của Herodotus, ông du hành qua rất nhiều nơi, thu thập tài liệu qua những gì được nghe kể lại, qua quan sát trực tiếp… Bởi vậy, cách viết của ông chi tiết, tỉ mỉ, cẩn thận – luôn kèm theo những cụm từ: “được thuật lại theo hai nguồn như sau”, “theo lời kể tôi có được”, “như lời kể lại”; hoặc với cùng một vấn đề ông sẽ đưa ra những phiên bản khác nhau, phân tích và đưa ra quan điểm của mình, ví dụ: “song tôi không tin lời họ”…; “và tôi cũng nghe được những điều khác…”, “mỗi người có thể lựa chọn cách mình thấy đáng tin hơn…”.

Bên cạnh khía cạnh một tác phẩm biên niên về lịch sử, một khảo cứu về văn hóa, phong tục, địa lý, v.v., Historiai còn có thể được nhìn nhận như một câu chuyện lý thú, cuốn hút. Trong tác phẩm này, những ai thích tiểu thuyết lịch sử, chuyện cổ tích, ngụ ngôn có thể tìm cho mình những nhân vật, những câu chuyện thật hấp dẫn.

 

Những cuốn sách về những tiếng vọng từ thần thoại và sử thi

 

“Thần thoại Hy Lạp”, “Odyssey” đưa ta trở về với vùng đất nơi trí tưởng tượng, niềm tin và khát vọng kết tinh thành những câu chuyện vượt thời gian.

1/ Thần thoại Hy Lạp

Thần Thoại Hy Lạp bao gồm những chuyện có tính chất hoang đường về nguồn gốc vũ trụ, loài người, giải thích các hiện tượng tự nhiên, xã hội, lịch sử các thành bang và bộ tộc Hy Lạp, đồng thời kể lại những sự tích về các anh hùng cổ xưa của đất nước Hy Lạp.

Nó là cơ sở của tôn giáo, là nền tảng của văn học, nghệ thuật Hy Lạp, đồng thời là một bộ phận không thể thiếu được của văn hóa châu Âu. Sự hiểu biết thần thoại Hy Lạp rất cần cho những người muốn làm quen với văn học, vì từ lâu thần thoại Hy Lạp đã trở thành nguồn cảm hứng bất tuyệt của các nhà văn phương Tây, một nguồn văn liệu dồi dào, một di sản vô giá đối với văn học và nghệ thuật thế giới. Chỉ xét riêng về giá trị văn học, thần thoại Hy Lạp cũng rất đặc sắc.

Đó là những chuyện hết sức hấp dẫn về các vị thần và các anh hùng, với những tình cảm, những khát vọng, ngay cả những khuyết điểm của con người. Đằng sau cái vẻ cổ xưa của thần thoại, ta thấy hiện ra những vấn đề triết học làm rung cảm con người ở mọi thời đại. Không phải ngẫu nhiên mà mãi cho đến nay vô số chủ đề của thơ, kịch, tiểu thuyết châu Âu đã lấy đề tài trong thần thoại Hy Lạp.

Trong cuốn sách này, soạn giả chỉ trình bày những thần thoại Hy Lạp đã được người La Mã tiếp thu và phát triển. Một số chuyện đã được trình bày toàn vẹn trong các anh hùng ca, trường ca, các vở kịch Hy Lạp và La Mã cổ đại, vì vậy ở đây, cũng chú ý giới thiệu cả nội dung một số tác phẩm tiêu biểu của văn học Hy Lạp, La Mã như Iliad, Odyssey của Homer, Thần phổ của Hesiod, Prometheus bị xiềng của Elsin, Oedipus làm vua của Sophocles, Ái tình của Ovid, Eneide của Vergilius …

 

2/ Odyssêy 

Bản anh hùng ca Odyssêy là bức tranh hoành tráng, hào hùng của người Hy Lạp trong cuộc chinh phục thiên nhiên và di dân mở đất. Tác phẩm gồm 12.110 câu thơ, chia làm 24 khúc ca, kể lại hành trình gian nan của Odyssêy (hay Ulysses) trên đường trở về quê hương sau khi quân Hy Lạp hạ được thành Troy.

Odyssêy phản ánh một giai đoạn cao trong quá trình tan rã của chế độ công xã thị tộc: Đó là thời kỳ những người Hy Lạp đã bước vào cuộc sống lao động hòa bình có khát vọng chinh phục thế giới xung quanh, thời kỳ hình thành gia đình một vợ một chồng với chế độ phụ quyền và quyền tư hữu tài sản.

Ngoài ra ta còn thấy khát vọng sống văn minh, hữu ái của người xưa như một nguyện vọng không riêng gì của thời đại Homer mà của nhân loại ở mọi thời đại. Chủ đề của Odyssêy là tinh thần chế ngự hoàn cảnh, chủ đề ăn sâu cắm rễ trong lòng dân tộc Hy Lạp, Homer liên tục nhấn mạnh qua mấy phẩm từ nổi trội gắn liền với ba nhân vật chính: Odysseus khôn khéo, Penelope kín đáo, Telemachos thận trọng.

Về hình thức thi phẩm là chuyện phiêu lưu, kết hợp tài tình giản dị với phong phú, thực tế với tưởng tượng, hữu hình với vô hình, thần linh với thế nhân, ảnh hưởng sâu đậm văn hóa, văn minh Tây phương hơn bất kể sáng tác văn chương nào từ trước tới giờ.

 

Những cuốn sách suy tư về xã hội và kinh tế

 

“Cách mạng Pháp và tâm lý học của các cuộc cách mạng”, “Lẽ thường”, “Sự thịnh vượng của các quốc gia” là những suy tư về trật tự cộng đồng, về sức mạnh và giới hạn của cách mạng, về sự phồn vinh cũng như những nguyên nhân dẫn tới suy tàn. Đó là nơi con người soi lại mình giữa những biến động lớn lao.

1/ Cách Mạng Pháp Và Tâm Lý Học Của Các Cuộc Các Mạng

Đây là một trong ba cuốn sách kinh điển của tác giả Le Bon, bao gồm: Tâm lý học đám đông; Những quy luật tâm lý về sự tiến hóa của các dân tộc; Cách mạng Pháp và tâm lý học của các cuộc các mạng.

Lịch sử của cuộc Cách mạng Pháp trên thực tế được cấu thành từ một loạt những biến cố lịch sử song hành và thường độc lập với nhau: lịch sử chế độ cũ nát đang tàn lụi do không có những người bảo vệ, lịch sử những hội đồng cách mạng, lịch sử những phong trào quần chúng cùng thủ lĩnh của họ, lịch sử những đạo quân, lịch sử những thiết chế mới,… Tất cả những nấc thang lịch sử đa phần thể hiện sự xung đột của các động lực tâm lý học đểu cần phải được nghiên cứu bằng những phương pháp mượn từ khoa học tâm lý.

 

2/ Lẽ Thường

Lẽ Thường (Common Sense) là cuốn sách quan trọng trong thời kỳ lập quốc của Mỹ, cho đến hôm nay vẫn còn nguyên giá trị lịch sử đối với những ai quan tâm đến lịch sử nước Mỹ.

Trong khoảng những năm 1750, người dân Mỹ tại thuộc địa tuy vẫn thuần phục triều đình Anh, nhưng giữa thuộc địa và mẫu quốc Anh đã âm thầm có nhiều mâu thuẫn.

Cuộc chiến tranh Bảy năm (1756-1763) giữa các cường quốc lúc bấy giờ, xảy ra ở Bắc Mỹ, đã khiến người Anh kiệt quệ. Họ bắt đầu ban hành đạo luật buộc dân thuộc địa phải đóng rất nhiều loại thuế vô lý, trong đó có đạo luật Tem (Stamp Act, 1765); đạo luật thuế Trà (Tea Act, 1773) gây căm phẫn và tức giận lớn đối với dân Mỹ.

Lúc bấy giờ các thuộc địa Mỹ chọn con đường cách mạng để giành độc lập. Từ tháng 4/1775 Anh và Mỹ đã có cuộc va chạm bằng vũ khí đầu tiên tại Lexington, Masachusetts; lần thứ hai tại Bunker Hill, Boston tháng 6/1775. Trong bối cảnh căng thẳng ấy, năm 1776 Lẽ thường của Thomas Paine được xuất bản, đã khơi dậy tinh thần độc lập mạnh mẽ của người dân Mỹ.

Khi Lẽ thường được phát hành tại Mỹ, 120 nghìn bản đã được bán hết chỉ trong ba tháng đầu tiên và trong năm đầu tiên, con số này lên đến 500 nghìn bản. Đó là một con số ấn tượng so với dân số 2,5 triệu người Mỹ lúc bấy giờ.

Cuốn sách là một tiểu luận ngắn gồm bốn chương, trong đó Paine trình bày các lập luận của mình để ủng hộ nền độc lập Mỹ, kêu gọi nước Mỹ đấu tranh để thoát khỏi sự phụ thuộc vào nước Anh.

 

3/ Sự Thịnh Vượng Của Các Quốc Gia

Sự thịnh vượng của các quốc gia (The Wealth of Nations) của Adam Smith là tác phẩm kinh điển, được coi là nền tảng của kinh tế học hiện đại. Ra mắt lần đầu năm 1776 – đúng vào thời kỳ Cách mạng công nghiệp đang diễn ra mạnh mẽ tại châu Âu – cuốn sách không chỉ mở ra một hệ thống lý luận kinh tế mới mà còn đặt ra cách nhìn sâu rộng về nguồn gốc sự thịnh vượng, vai trò của thị trường, nhà nước và xã hội.

Dù đã hơn 250 năm trôi qua, những phân tích trong tác phẩm vẫn còn nguyên giá trị, trở thành điểm tham chiếu không thể thiếu cho các nhà kinh tế học và độc giả quan tâm đến khoa học xã hội.

Adam Smith – nhà triết học và kinh tế học người Scotland – được xem là cha đẻ của kinh tế học hiện đại. Là một trong những tư tưởng gia lớn của Thời kỳ Khai sáng, ông đã để lại hai tác phẩm quan trọng:

  • The Wealth of Nations – nền móng của kinh tế học cổ điển.
  • The Theory of Moral Sentiments – tác phẩm triết học về đạo đức có ảnh hưởng sâu rộng.

Tư tưởng của ông đến nay vẫn tác động mạnh mẽ đến kinh tế, triết học, chính trị và xã hội học.

Với Sự thịnh vượng của các quốc gia, Adam Smith không chỉ viết một cuốn sách về kinh tế, mà còn để lại một di sản tư tưởng trường tồn – nơi mỗi trang sách đều khơi mở cái nhìn mới về lao động, thị trường, tự do và trật tự xã hội.

- Trạm Đọc tổng hợp

- Tham khảo Omega Plus Books